ĐẠO ĐỜI (3)
(Đạo
Hòa bình – Hạnh phúc)
(Đã sửa ngày 30/5/2020)
(Tiếp
theo)
6/
Giai đoạn 2
‘Rèn Tâm trực
tiếp’ của giai đoạn 1 – là chỉnh sửa Ca của
các việc ‘ngoài não’.
‘Rèn Tâm trực
tiếp’ của giai đoạn 2 – là chỉnh sửa Ca của
các việc ‘trong não’.
Để kế thừa lực
đẩy (niềm vui) CaN từ giai đoạn
‘ngoài não’, sang giai đoạn ‘trong não’ (trí tuệ), thì tiến hành:
- Đặt ‘CaN’ = 0 (‘0’ có nghĩa ‘hoàn thiện’ ) – viết là ‘Ca(0N)’.
Chỉnh sửa
trong não, thực chất là chỉnh sửa
trong Vô thức (tâm).
- Là giai đoạn
quyết định, sửa đổi A2 thành A1 toàn diện – đối tượng
trực tiếp là Ca.
- Là giai đoạn
xử dụng chủ yếu lao động T (Vùng 1),
để sản xuất từ Ca(Sai) ra Ca(Đúng).
. Lúc này lao động V (Vùng 2) chỉ tác
động hỗ trợ định hướng cho lao động T
(Vùng 1) – bằng các ý niệm gợi ý (do Vùng 1 – gởi thông tin kích hoạt ra).
(Chú thích:
- Giai đoạn
1 (Rèn Tâm trực tiếp - ngoài não), dùng ‘tư duy ý thức’ (lao động V) là
chính, để chỉnh sửa các ‘việc’ đạt logic
T. Từ đây tác động gián tiếp lên lao
động T, để tạo ra các Ca.
- Giai đoạn 2 (Rèn Tâm trực tiếp - trong não), dùng ‘lao động T’ là chính, để trực tiếp
chỉnh sửa các Ca thành các Ca trình cao (hoàn thiện hơn), đến Can.
)
Xác định mục
đích rèn luyện (sửa chữa), là đạt Ca =
0 (bình an, H) hay Ca(0) – từ số lượng
ít đến số lượng toàn diện.
Và định
nghĩa Ca = 1 hay Ca(1) – là bất an,
K. Là đối tượng tiền đề của Ca(0).
Hiện tại sự
sống đang dùng phổ biến Ca(1).
Cách chỉnh sửa
trong não, chủ yếu dùng
- ‘Ca(0) – tích cực’ đối đầu
với ‘Ca(1) – tiêu cực’.
(Kết quả ‘tiêu cực’ luôn thua – nếu thực hiện đúng cách, do quy luật quy định)
Vì các Ca trong Vô
thức không có nội dung cụ thể, nên không thể dùng lý giải để chứng minh xóa Ca(1), như cách áp dụng của giai đoạn rèn luyện ngoài não.
Mà chủ yếu dùng Ca(0) thắng trực tiếp Ca(1).
Ca(0) là dùng lực đẩy của ‘Ca(0N)’, của giai đoạn 1 truyền lực
qua.
. Nội dung Ca(0), do ý niệm (Vùng 2) gợi ý.
. Ý niệm
(Vùng 2), do Ca(0N) (Vùng 1) gợi tín
hiệu ra, kích hoạt tạo ‘ý niệm-gợi ý’ của (Vùng 2).
Bắt đầu sửa
chữa, gọi Ca(1) = Ca(Sai) là đối tượng của việc đầu tiên.
(cụ thể nó
là những bất an do ‘Vùng 1’ phát ra.
- Những bất
an của ‘Vùng 2’ đã giải quyết xong cơ bản, trong giai đoạn 1).
Khi Ca(1) xuất hiện, ta áp Ca(0N) vào để đối
đầu.
. Kết quả đạt
chiến thắng, cho Ca(0N) + Ca(1) = ‘Ca(01)’.
Và tiếp tục Ca(01) đối đầu với Ca(1.2) xuất hiện. Kết quả đạt ‘Ca(02)’.
Tiếp Ca(02) đối đầu với Ca(1.3), cho ra Ca(03) …
v.v…
… cuối cùng là Ca(0n-1)
đối đầu Ca(1.n), cho ra kết quả sau
cùng là ‘Ca(0n)’.
‘Ca(0n)’ đánh dấu ‘Rèn Tâm trực tiếp’ của
giai đoạn 2 đã thành công và kết thúc.
- Đặt Ca(1.n) = 1 = SAI
= Ý thức = V = K
Ca(0n) = O =
ĐÚNG = Vô thức = T = H
Từ kết quả
rèn luyện cho phép kết luận:
- Với mọi 1 (ý
thức), Tâm luôn bằng O (vô thức).
Hay
1 (ý thức, K) => O (vô thức, H).
(Diễn giải -
với mọi ý thức bất an K, tâm luôn
bình an H.)
Chú thích,
- Trong rèn
luyện giai đoạn 2, ví dụ kết quả ‘Ca(01)’
- phải gắn (sáng tác) một Tên-Định nghĩa (để dễ nhớ).
Để sau đó gọi
‘Tên-Định nghĩa’ ấy ra, để tạo lực đẩy đối đầu với Ca(1.2), v.v…
Các ‘Tên-Định
nghĩa’ thường do sáng tác ngẫu nhiên tức thời. Nhưng sao cho có lý, để khi cộng
chung lại tạo thành nội dung hệ thống phát triển nhất quán.
Ví dụ, cây mọc
hướng về mặt trời, con người hướng về sự rộng lớn, thẳng hướng vũ trụ tự nhiên
bao la, v.v ...
Các ‘Tên-Định
nghĩa’ cũng nhằm tạo lực đẩy cho Ca.
Ca(0n) = 0, là tổng của nhiều Ca(0x) = Ca = 0.
(chú thích:
- n là chỉ số đích đến, x là biến số)
Nó có ý
nghĩa:
Ca = 0 = Bình an, Niềm tin, sự phát triển, Hạnh phúc.
Tại sao?
- Tai kết cấu
trí tuệ là như vậy.
Khi Ca đã đạt logic T đồng bộ, thì tự động
cảm giác bình an hình thành.
Nhằm chứng minh, sự sống đang vận hành đúng quy luật.
Tức là, sự sống
không cần dùng cầu nguyện, đọc kinh, vái lạy ai, cầu khẩn trời đất, v.v… để tìm
H (chân lý, quy luật).
Mà là rèn
luyện sản xuất Ca thành công, thì H sẽ đến.
Cụ thể,
Ca (V) + Ca (T) = H (HpV+HpT)
III - ỨNG DỤNG ‘Ca’ VÀO CUỘC SỐNG.
a.
Ca là gốc của sự sống.
Con người sống
phát triển bằng Ca (của Tâm, Vô thức,
T).
- Với Ca là cảm xúc trong vô thức (Vùng 1).
Vì không
nhìn thấy Ca (Vô thức), nên tin rằng
‘Vật chất quyết định Ý thức (T)’.
Hoặc ‘Tự do
+ Giàu tiền = H’.
Hoặc ‘Cầu
nguyện … = H’.
Đáp án đúng phải là
‘HpV + HpT = H’
Với
HpV = KHV + Logic V = Tiền
HpT = KHT + Logic T = Ca
Lao động V, tạo ra ‘Tiền’.
Lao động T, tạo ra ‘Ca’.
KHT chứng minh:
. Ca (A1) là cái gốc của quy luật sự sống.
Nó được cấu
tạo bằng ‘logic T’.
‘Logic T’ là
vấn đề của ‘nhận thức’ (ý nghĩa mục đích việc làm).
Do vậy,
Chỉ cần ‘thay đổi nhận thức’, là sự
sống thành công.
- ‘Thay đổi
nhận thức’ do ĐẠO ĐỜI tham vấn.
Vì ĐẠO ĐỜI
là đại diện của KHT – theo định
nghĩa.
- Nên muốn vận
dụng KHT, tốt nhất là tham vấn ĐẠO ĐỜI.
Vì sao ĐẠO ĐỜI
đại diện cho KHT, và đại diện như thế
nào:
- Vì từ KHT mà
ĐẠO ĐỜI được tạo ra.
- Vì ĐẠO ĐỜI không dùng bạo lực hay ưu quyền,
để áp đặt chân lý (dưới mọi hình thức)
với mọi người. – (Ví dụ, chính quyền dùng bạo lực, tôn giáo dùng ưu quyền huyền
bí, v.v..)
- Vì ĐẠO ĐỜI
dùng biện chứng KH và thực tiễn, để chứng minh chân lý khách quan.
- Vì ĐẠO ĐỜI kết luận, thế giới phải tiến lên mô hình 'Toàn dân - Cầm quyền' (làm chủ trực tiếp) xã hội (quốc gia, thế giới), thông qua hệ thống DIỄN ĐÀN rộng khắp. Vì đây là con đường duy nhất, đem đến lợi ích lý tưởng, cho tất cả mọi người (loài người).
(‘Chính quyền’ trở lại làm đúng chức năng, của bộ máy ‘Thừa quyền’. - Là có nhiệm vụ làm theo mệnh lệnh, của 'Toàn dân - Cầm quyền' - ĐẠO ĐỜI tham vấn.)
- Vì ĐẠO ĐỜI kết luận, thế giới phải tiến lên mô hình 'Toàn dân - Cầm quyền' (làm chủ trực tiếp) xã hội (quốc gia, thế giới), thông qua hệ thống DIỄN ĐÀN rộng khắp. Vì đây là con đường duy nhất, đem đến lợi ích lý tưởng, cho tất cả mọi người (loài người).
(‘Chính quyền’ trở lại làm đúng chức năng, của bộ máy ‘Thừa quyền’. - Là có nhiệm vụ làm theo mệnh lệnh, của 'Toàn dân - Cầm quyền' - ĐẠO ĐỜI tham vấn.)
- Vì ĐẠO ĐỜI
khuyến khích mọi người, tự do tranh
luận CÔNG KHAI/BÌNH ĐẲNG, để minh định sự tồn tại của chân lý.
- Vì ĐẠO ĐỜI
xác định, sự sống chỉ có Một chân lý. Nên mọi tranh luận đúng logic, đều cuối cùng gặp nhau tại điểm
thống nhất.
Đã là chân lý, thì không nhận thức nào có thể
vượt qua giới hạn.
Nhờ vậy nếu
ĐẠO ĐỜI sở hữu chân lý toàn diện,
thì đủ khả năng tham vấn sự sống vào quỹ đạo H và HHV.
- Vì ĐẠO ĐỜI
không dùng quyền lực, chỉ dùng chân lý để
đánh thức ý thức tự giác đúng đắn của xã hội. Nhờ vậy xã hội (quốc gia, thế giới)
luôn phát triển trong bình yên tự giác.
- Vì ĐẠO ĐỜI
mở rộng cửa thành viên cho mọi người.
‘Không ích kỷ,
không bạo lực, mục đích Hạnh phúc, v.v..’ là những tiêu chí phấn đấu của các
thành viên ĐẠO ĐỜI.
- Vì ĐẠO ĐỜI
không do cá nhân nào toàn quyền quyết định. Mà do đa số (trong mỗi diễn đàn), biểu quyết thực hiện các hoạt động. Mọi
người đều bình đẳng trước chân lý.
Con người hơn nhau ở tính ĐÚNG-SAI trong mỗi quan điểm góp ý.
- Vì ĐẠO ĐỜI
hoạt động theo nguyên lý ‘lương tâm’.
Mà ‘lương tâm’ là cái gốc của sự sống. Nên ĐẠO ĐỜI sẽ là trung tâm tập hợp mọi
người, không phân biệt bất kỳ.
Thế giới đến
nay, chưa có mô hình tổ chức nào hoạt động theo kiểu ĐẠO ĐỜI.
- Nơi mọi
người chỉ dùng tranh luận để chứng
minh chân lý, xây dựng tương lai. –
Tuyệt đối không dùng quyền lực, bạo lực, giáo điều áp đặt, v.v… để bắt mọi người
thực hiện “chân lý” theo mệnh lệnh.
- Tất cả làm
theo tranh luận thống nhất công
khai, nhằm tạo điều kiện mọi người giúp nhau - cùng làm chủ cuộc sống, làm chủ
xã hội, và làm chủ tương lai Hạnh phúc.
b.
Vai trò và ý nghĩa của Ca.
1/
Bí mật sự sống
nằm ở Ca.
Có thể nó là
những tế bào thần kinh rất nhỏ, nhưng tất cả loài người phải lệ thuộc nó.
Ca là thủ phạm chính, của mọi ‘Sai Lầm’.
Nhưng nó ẩn
trong vô thức, để điều khiển ý thức.
Nên con người
ngộ nhận Ý THỨC là thủ phạm.
Hậu quả,
loài người dùng đủ mọi biện pháp, để tiêu diệt ý thức-SAI.
- Nhưng đều
thất bại.
Vì thủ phạm
chính Ca – chưa có biện pháp trị đến.
Muốn thắng Ca, chỉ có lao động T,
- do ý niệm
đã qua rèn luyện kích hoạt.
Ca là gì?
- Là cái gốc
điều khiển tư duy (ý thức, ý chí).
- Ngược lại tư duy cũng điều khiển Ca.
Khi con người
chưa làm chủ quy trình tương tác biện chứng này, thì chúng “dắt tay nhau” đi
lung tung phương trời (vô phương kiểm soát).
Não (trí tuệ) có tính đồng bộ thống nhất. Nếu một
tư duy SAI, cả khối thành SAI.
Mỗi tư duy
là đại diện của một cá tính nhỏ. Sửa một cá tính nhỏ, có thể được.
Nhưng sửa một
cá tính lớn (tổng của nhiều cá tính nhỏ), thì rất khó.
Sửa một nhân
cách (tổng các cá tính lớn), thì thường không thể ...
Nhưng tất cả
sẽ sửa được, nếu biết dùng KHT.
- Tuy nhiên,
nó còn tùy thuộc ý muốn của người sửa, và các yếu tố khách quan khác.
Sau khi các điều kiện đã thỏa, thì cách sửa cũng đơn giản.
- Bằng cách
hàng ngày, dành thời gian sửa từng tính cách nhỏ một.
(Giống như
xây nhà, con người phải xếp lên từng viên gạch một.)
- Ở đây là xếp
từng viên ‘Ca’ một. Và phải theo quy
trình trật tự do A1 quy định.
Cứ thế lâu
ngày, chủ thể sẽ xây hoàn thành ‘Nhân cách mới’.
Hay mục đích
là xây dựng ‘lâu đài-Ca’ (lâu
đài-nhân cách) trong vô thức.
- Xây dựng
trong vô thức, chỉ có bằng thủ công.
Ngoài ra không máy móc nào có thể thay thế. – Vì vậy nó xây rất chậm, rất lâu.
(Chứ không còn cách nào khác)
Ví dụ:
- Một tư duy
ý thức muốn thay đổi, không khó. – Từ
‘màu đỏ’ nói láo ‘màu vàng’, rất nhanh. Nhưng khổ nỗi, tính cách do Ca quyết định.
- Nhưng một Ca (buồn, gian xảo) muốn nó thành Ca (vui, trung thực), là rất khó hay
không thể.
Ca là do lao động
T sản xuất.
Nó sản hoạt
nhanh hay chậm, không ai biết được.
- Tùy theo
đơn đặt hàng từ ý thức, mà lao động T sản
xuất nhanh hay chậm.
Ví dụ:
- Nhiệm vụ Lao động T là sản xuất ‘Ca – Đúng’.
- Với điều
kiện “hồ sơ” ý thức nộp, phải thỏa logic
T.
- Nếu không
nó sản xuất ra ‘Ca – Sai’.
Mỗi lần như
vậy mất rất nhiêu thời gian, để sửa lại “hồ sơ”.
- Trên là
trường hợp các vấn đề ‘Rèn Tâm trực tiếp’ giai đoạn 1.
Sang giai đoạn
2, không có chuẩn logic T rõ ràng.
Tất cả “hồ
sơ” phải bằng ‘phản xạ - logic cảm
xúc’, do chủ thể tự sáng tác ứng phó.
- Khi ‘cảm
thấy nó đúng, hợp lý, hợp logic’ – là nộp “hồ sơ” vào vô thức.
- Đợi lâu
lâu (hên xui, tùy hồ sơ), lao động T sản
xuất ra ‘Ca - H’ – là thành công.
(- Nếu thất
bại, nó sản xuất ‘Ca - K’.
Bấy giờ, phải
rà sửa lại “hồ sơ sáng tác”)
Thông thường
“hồ sơ sáng tác” luôn đúng. Vì lao động
T cũng gợi ý ra.
+ Khi có
lòng thành cộng tích lũy kinh nghiệm từ giai đoạn 1,
+ thì lao động T sẽ giúp hướng dẫn
soạn “hồ sơ sáng tác” rất rõ.
Để cuối cùng
đi đến đích ‘Ca = 0n’.
2/
Từ thành quả
nghiên cứu xây dựng HTNT (ĐẠO ĐỜI), cho phép rút ra kết luận sau đây:
- Lao động T chỉ chấp nhận ‘hồ sơ logic T’ (giai đoạn 1)
- Và ‘hồ
sơ logic-cảm nhận (sáng tác/phát
minh)’ do lao động T gợi ý (giai
đoạn 2).
Còn lại mọi
“hồ sơ” khác đều bị từ chối.
So sánh thực
tế - thời đại Văn minh V:
- Những nhân
danh “người thiện” lại hay dùng ‘hồ sơ logic
V’
- Và những
‘Kẻ ác’ thì dùng ‘hồ sơ logic B’ (chống logic T)
Để nộp xin
gia nhập ‘quản lý-lao động T’ – sản
xuất Ca.
Kết quả, cả
hai đều thất bại.
. Đây là lý
do “người thiện” suy yếu dần ‘Vốn T’.
. ‘Kẻ ác’
thì càng ác, dấu hiệu âm dần ‘Vốn T’.
Đây là lý do
chứng minh, vì sao cái Ác không
thể là cái Thiện.
- Cho dù cái
Ác gian trá láo lếu đến đậu, cũng
không thành Thiện.
- Vì nó
không xâm nhập được Vô thức (lao động T) – trung tâm điều khiển sự sống
toàn diện.
Từ đây suy
ra, SỰ SỐNG có chân lý, có Phải/Trái – Đúng/Sai phân
minh.
- Và nó
do tự nhiên (lao động T – A1) quy định.
Nhìn lại
cách loài người Văn minh V, đang vận hành sinh tồn như thế nào. Sẽ thấy và hiểu
vì sao nó còn bất ổn.
Theo dòng thời
gian, tùy theo lãnh thổ, tùy theo sự phát triển, con người cho rằng:
- Một là, Phải/Trái
do ‘sức mạnh-cơ bắp’ quyết định.
- Hai là, Phải/Trái
do ‘sức mạnh-vũ khí’ quyết định.
- Ba là, Phải/Trái
do ‘sức mạnh-kinh tế’ quyết định.
- Bốn là, Phải/Trái
do ‘sức mạnh-KHKT’ quyết định.
- Năm là, Phải/Trái
do ‘sức mạnh-quyền lực’ quyết định.
(Hệ quả của tổng hợp sức mạnh)
- Sáu là, Phải/Trái
do ‘sức mạnh-Bệnh T’ quyết định.
(Bệnh T = Bệnh tính Ác. Như bạo lực,
gian xảo, vô cảm, chai lì, lưu manh, bất công, ích kỷ, bàng quang (việc chung xã hội, thế giới), v.v ...)
- Bảy là, Phải/Trái
do ‘sức mạnh-Siêu nhiên’ quyết định.
(Siêu nhiên = Niềm tin tôn giáo, giáo điều,
huyền bí, thần thánh, mê tín, v.v..)
- Tám là, Phải/Trái
do ‘sức mạnh-Dốt nát’ quyết định.
(Dốt nát = Làm đại/bừa/ẩu, thiếu suy nghĩ,
thiếu nhận thức, thiếu giáo dục … bất kể hậu quả, bất kể tương lai. Miễn là thỏa
niềm vui trước mắt nhất thời … là làm)
Cả tám quan
điểm trên đều không đạt ‘hồ sơ logic T’.
- Có thể một
số quan điểm, ít nhiều có đạt nội dung quy định.
- Tuy nhiên
tổng hồ sơ mỗi quan điểm, đều không đạt – luôn SAI.
Hậu quả, Ca của xã hội sản xuất một, thì Cab sản xuất hai ba.
- Hay tính Thiện tăng một, thì tính Ác tăng hai ba.
- Vốn T loài người vì thế yếu dần, nhưng mấy
ai hiểu tại sao.
Cái gì thiếu
nghiên cứu rèn luyện học tập – đến nơi đến chốn,
. thì cái
SAI (ác) tất yếu sẽ tăng theo tỉ lệ,
. ngược lại
cái ĐÚNG (thiện) thì hiếm dần
(vì độ khó
nhận thức xã hội tăng).
Vì vậy ‘lao động T’ là hàng rào bảo vệ ‘tính Thiện’
của tự nhiên.
- Nó luôn hoạt
động hiệu quả và chính xác.
Con người dù
có ‘son phấn, trang điểm, che mắt đến đâu’, thì kết quả đều vô nghĩa trước lao động T. Mọi Đúng/Sai đều hiện
nguyên hình.
- Tiếc rằng
những ‘Thiện-logic V’ lại dễ rụng
tim, vì các lớp son phấn ấy … Thế là sụp bẫy!
(con người
cuồng Văn minh V, hơn Văn minh T)
*
Đây là lý do giải thích vì sao, tuy
hai kiểu người,
MỘT - -
- “Người
THIỆN”
(văn minh V) làm việc rõ ràng, đúng đắn, chính xác, đàng hoàng, công khai minh
bạch, không ác ý, không chơi xấu, v.v…
. Và Văn minh V gọi như thế là ‘người thiện’.
Tuy nhiên
KHT định nghĩa, ‘Người Thiện-Văn minh V’ chủ yếu nặng về hình thức …
- Có nghĩa,
nhìn chung thuộc tính của họ vẫn là ÁC
- Nguyên
nhân, bản chất Mục đích V là tính Ác và
K.
(Khi nó thiếu
cơ sở chứng minh, vị trí vai trò của ‘tình
người’ trong hệ thống chức năng mục đích.)
Hay
Người Thiện-Văn minh V
= Người Ác (tiềm năng)
Tức là tính Ác ở dạng nhẹ, hay tiềm ẩn - Bệnh T nhẹ
(tiềm năng).
– Trường hợp
này phải dùng phân tích KHT mới phát
hiện (siêu vi ‘Ác’), ẩn sâu bên
trong cách sống/cách tư duy. Mắt thường nhìn không thấy/không phân biệt.
Con người bị
lây nhiễm ‘siêu vi Ác’ trong quá
trình lớn khôn tự nhiên.
- Giai đoạn
ý thức logic T chưa hình
thành rõ ràng (nên sinh bệnh).
(Cụ thể, họ
thường dùng logic V trong ứng xử cuộc sống [hay trong môi trường KHT]. – Biết rằng, logic V chỉ
được dùng trong tương tác vật chất [hay trong môi trường KHV]).
và
HAI - -
- ‘Người
ÁC’ là người biết việc đang làm là SAI (có hại cho người khác), nhưng
vẫn làm - vì lợi ích bản thân. Cứ thế tính ‘ích kỷ-độc ác’ (hay
‘tính Ác’) hình thành từ đây.
Đặc điểm của
tính Ác là sự gian dối, xảo trá, lưu
manh, không minh bạch, bất công, độc ác, không đối thoại-bình đẳng-công khai-đại
chúng-minh bạch để tìm lẽ phải-chân lý, v.v…
Vậy là họ đã
mắc Bệnh T nặng (do A2
lớn mạnh), trong quá trình lớn khôn.
Có nghĩa họ
đã bị tâm Ác (A2)
điều khiển trí tuệ, trong suốt thời gian bị bệnh.
+ Hậu quả,
khả năng nhận thức phân biệt ‘Phải/Trái-Đúng/Sai’ kém dần. Kỹ
năng tư duy logic lý giải các nan đề
sự sống (con người/xã hội) dễ bị đuối lý, bế tắc, mất phương hướng.
Nên sinh ra
tìm cách né tránh ‘không đối thoại’, hoặc ‘đối thoại một chiều (áp đặt, đe dọa,
nói năng vô lối, quanh co, v.v..)’. Để cuối cùng chuyển qua ‘bạo lực, dối trá,
lưu manh, mưu sâu kế hiểm, ..’ giải quyết vấn đề.
Vì vậy họ là
‘Kẻ Ác’ đúng nghĩa - xét trên
mọi góc độ (trừ những ai bị trúng quả lừa – số này không ít và đủ loại thành phần
đối tượng).
Nhờ vậy họ vẫn
tồn tại mạnh mẽ, khi ‘những người bị mắc lừa’ luôn tích cực bảo vệ họ rất hiệu
quả.
**
‘Người Thiện-Văn minh V’ và ‘Kẻ
Ác’ tuy khác nhau về mục đích hành vi,
nhưng giống nhau ‘cùng lạc lối đường
đến H’.
Hậu quả, cả
hai đều THẤT BẠI khi lên nắm ‘CHÍNH QUYỀN’.
- Vì người
dân cả hai bên đều ít nhiều chống đối ‘Chính quyền’.
(Mặc dù xét
về quy mô và tính chất, sự chống đối có khác nhau. Tuy nhiên vẫn là ‘bị chống đối’.)
Lạc lối đồng
nghĩa, ý thức quy luật chưa rõ ràng.
. Đồng nghĩa
sự sống bị cản trở. Lý do bất ổn và K
ra đời.
Đáp án, loài
người cần xây dựng thế hệ ‘CON NGƯỜI MỚI’, để thay thế hai nhóm người đã quá cũ
kỹ trên.
***
Sự trộn lẫn giữa ‘Người Thiện-Văn minh
V’
Và ‘Kẻ Ác’.
‘Người Thiện-Văn
minh V’ mắc sai lầm, vì dùng ‘logic V’
trong ứng xử xã hội.
‘Kẻ Ác’ mắc
sai lầm, vì dùng ‘logic B’ trong ứng
xử xã hội.
- Đáp án
đúng, con người phải dùng ‘logic T’
trong ứng xử xã hội.
Lúc đầu,
Khi Văn minh
V còn non trẻ, ‘Người Thiện-Văn minh V’ và ‘Kẻ Ác’ rất dễ phân biệt về
hình thức
- Ví dụ, bên
này sống đàng hoàng chỉnh tề, bên kia nghèo khổ hung ác bẩn thỉu.
Sau đó Văn
minh V phát triển, bấy giờ ‘Thiện/Ác-Văn minh V’ gần như nhập làm một. – Tức là
họ giống nhau gần như đúc, từ hình thức đến nội dung.
- Vậy là rất
đông người bị mắc lầm. Xã hội gần như mất kim chỉ nam phân biệt ‘Phải/trái-Đúng/Sai’.
Ai cũng có thể là Ác, ai cũng có thể
là Thiện …
Lý do:
- Một là, tính
Ác (tiềm ẩn) của ‘Người THIỆN-Văn minh V’ nay bắt đầu trổi dậy,
khi cảm thấy ‘sự sống bị chặn’ (hệ quả lạc lối).
- Hai là, ‘Kẻ
Ác’ rút kinh nghiệm giả vai ‘THIỆN-Văn minh V’ ngày càng giống hơn.
Cái Ác giờ đây biết làm giống cái Thiện từ hình thức đến nội
dung.
Ví dụ:
- Họ cũng biết
sắm áo quần tươm tất, giàu sang, chức quyền, danh lợi, v.v ….
- Họ cũng học
chữ nghĩa, bằng cấp, làm việc thiện, lý lẽ đấu tranh công bằng, v.v…
Nhưng trừ
‘Tâm ác - A2 - Cab’ (biểu hiện của Bệnh T – hại người), là yếu tố duy nhất còn lại
– mà cái Ác vĩnh viễn không bao
giờ làm giả được.
(Vì nếu làm
được, nó trở thành Thiện. Mà điều này không thể, vì Thiện và Ác là khoảng cách
rất xa trong rèn luyện.)
. Vì vậy so
với ‘Tâm thiện – A1 - Ca’ của ‘Người Thiện – Văn minh V’, ‘kẻ Ác’ luôn khác.
Tuy nhiên sự
khác biệt, không thể nhìn thấy bằng mắt
hay bằng suy luận thông thường.
- Mà phải bằng
luận pháp KHT/logic T chặt chẽ, kết hợp quá
trình Rèn Tâm lên cao – từ bằng đến cao hơn, cấp độ của ‘Tâm Ác’.
Ví dụ:
- Độ sâu của
‘Tâm Ác’ (A2) là ‘- Ca3’
(hay ‘Cab3’),
- thì trình
‘Tâm Thiện’ phải từ ‘+ Ca3’ trở lên.
Thì ‘tính
Thiện’ mới đủ khả năng, nhận diện hết ‘tính Ác’ đối trọng.
Khả năng
quan sát này thuộc trình Vô thức, do các tài năng-lương tâm (KHT)
thực hiện.
– Người bình
thường chủ yếu quan sát (con người) bằng ý thức, nên dễ bị nhầm lẫn (khi
cái Ác đã nâng cấp tồn tại).
Suy ra, ‘Sự sống’ là một nghề KH có tính chuyên
nghiệp. Gọi là ‘NGHỀ SỐNG’.
Chỉ những ai
phát triển (Rèn Tâm) đủ chuyên môn, mới có thể vận dụng hiệu quả vào cuộc sống.
Tuy nhiên
loài người đến nay chưa có ‘NGHỀ SỐNG’.
Vì vậy sự
phân biệt Thiện/Ác còn lẫn lộn. Lý do bất ổn phát sinh.
. Đây là lý
do ĐẠO ĐỜI được thành lập, nhằm thực hiện mục tiêu đào tạo ‘Nghề Sống’.
Đến đây có
thể đánh giá công lao của lao động T
là rất lớn.
Nó là biên
giới tự nhiên cuối cùng, để phân biệt Thiện
– Ác – mà không sợ nhầm lẫn.
- Vì nó luôn
chỉ chấp nhận ‘hồ sơ logic T’
(của tính Thiện-Văn minh T),
Đồng nghĩa
. Không chấp nhận ‘hồ sơ logic V’ (của tính
Thiện-Văn minh V),
. Và không chấp nhận ‘hồ sơ logic B’ (của
tính Ác-Bệnh T).
Đồng nghĩa
thời đại ‘Văn minh V’ đã quá hạn xử dụng.
-
Đã đến lúc,
thế giới cần tiến lên xây dựng mẫu ‘CON NGƯỜI MỚI’,
cho thời đại
mới - Văn minh T.
Mẫu người mới
ấy được định nghĩa như sau:
Người
logic T
= Người THIỆN – Văn minh T
= ‘CON NGƯỜI MỚI’
Để thay thế
hai mẫu người ‘Thiện-Văn minh V’ và ‘Ác-Bệnh T’, đã quá hạn xử dụng.
Được như thế,
kỷ nguyên phát triển KH đồng bộ - từ V đến
T, chính thức được thành lập.
3/
Trong Văn
minh V, con người quen dùng bốn công cụ (phương tiện) chính sau đây, để
điều hành thúc đẩy xã hội phát triển:
- Một là ‘Tiền’ (sức
mạnh vật chất)
- Hai là ‘Quyền lực-Thiểu số’ (bao biện, độc đoán)
- Ba là ‘bạo lực’ (công an, quân đội)
- Bốn là ‘tôn giáo’ (để xoa dịu bất an)
Ngày nay,
‘Thiên’ và ‘Ác’ đều dùng giống nhau bốn công cụ này.
Tức là giống
nhau một phương thức quản lý xã hội.
. Thì cơ sở
nào để phân biệt ‘Thiện/Ác – Đúng/Sai’ trong cuộc sống.
Vì vậy thế
giới luôn bất ổn và K.
Trong Văn
minh T, con người dùng bốn công cụ sau đây,
để quản lý
phát triển xã hội:
- Một là ‘Lẽ phải-Chân lý’ (sức
mạnh tinh thần)
- Hai là ‘Quyền lực-Toàn dân’ (hệ thống diễn đàn).
- Ba là ‘ĐẠO ĐỜI-Tham vấn’ (luận pháp KHT/logic T)
- Bốn là ‘Tiền’ (sức
mạnh vật chất)
Từ bốn công
cụ cơ bản này, tính ‘THIỆN’ sẽ xóa sổ tính ‘ÁC’ vĩnh viễn.
Loài người
tiến đến H và HHV thành công.
Biết rằng,
-
‘THIỆN’ là đồng nghĩa ĐÚNG ĐẮN và H.
-
‘ÁC’
là đồng nghĩa SAI TRÁI và K.
Suy ra, khi
sự phân biệt Đ/S đã rõ, thì đích đến HHV
sẽ là chắc chắn.
Hay nó chỉ
là vấn đề thời gian.
. Ngược lại,
lịch sử đến nay chứng minh - bài toán Đ/S còn chưa minh bạch. Đây là nguyên
nhân cơ bản, đã tạo cơ hội cho tính ‘ÁC’ trường tồn.
. Muốn Đ/S
rõ ràng chỉ có cách vận dụng KH vào hiện tượng sự sống (con người).
Đồng nghĩa
thế gian sẽ tiến lên từ ĐẠO ĐỜI – khi nó là đại diện đầy đủ của KHT, là luận pháp KH hóa thành công sự sống (con người).
Trong Văn
minh T, các trọng tâm cơ bản cần tập trung lý giải:
- Một là,
quy trình sản xuất ‘Lẽ phải-Chân lý’.
- Hai là,
xây dựng thế trận ‘Quyền lực-Toàn dân’.
· Muốn sản xuất ‘Lẽ phải-Chân lý’ cần có ‘Ca = 0’ làm gốc định hướng.
(Ví dụ, trong Ca có mười cấp - từ 01 đến 010.
Vậy Ca
= 0n với n=10. Còn lại là Ca = 0x).
Mỗi cấp Ca = 0x, là đại diện cho một trình ‘lẽ phải-chân lý’, của một phạm vi nhận
thức sự sống nhất định.
Ca = 0n, là đại diện ‘chân lý’ toàn diện chung. - Có nhiệm vụ xác định kim chỉ nam tiến
hóa, chung loài người.
Để có ‘Ca = 0n’ đầu tiên, bắt buộc phải dùng Rèn
Tâm (trực tiếp) để xác định.
Từ Ca = 0n, tác giả tìm ra HTNT (ĐẠO ĐỜI).
Từ Ca = 0x, các tài năng-lương tâm sẽ tìm
ra lẽ phải-chân lý, phù hợp cấp độ vấn
đề.
Từ 0n và 0x, kết hợp với mọi người, sẽ tìm ra lẽ phải-chân lý của xã hội, cho mỗi vấn đề.
(Chú thích:
- Ca = 0 có nghĩa, tính khách quan vô
từ (bình an) của chủ thể.
- Ca = 0 là thành quả Rèn Tâm của chủ thể,
theo khả năng.
- Ca = 0x là đắc đạo từng phần.
- Ca = 0n là đắc đạo toàn diện.
)
Đặc điểm của
Rèn Tâm gián tiếp, là phải dùng 0n
làm kim chỉ nam.
- Nếu không
kết quả sẽ lạc lối. Mâu thuẩn/bất ổn/tội ác xã hội sẽ tái lập như cũ.
+ Tổ Nhóm, là đơn vị sản xuất ‘lẽ phải-chân
lý’ – cấp thô sơ của xã hội.
+ Hệ thống DIỄN ĐÀN, là tổ chức sản xuất
‘lẽ phải-chân lý’ – cấp hoàn thiện
của xã hội (quốc gia, thế giới – dưới sự tham vấn của ĐẠO ĐỜI, đầu mối tập hợp hệ thống hóa lẽ phải-chân lý toàn cầu).
+ Qua các tổ
chức hoạt động tổng hợp trên, mọi người sẽ dần nâng cao nhận thức, đồng nghĩa
thành quả sản xuất Ca sẽ tăng dần. - (Đây gọi là ‘Rèn Tâm gián
tiếp’).
· Muốn xây dựng thế trận ‘Quyền lực-Toàn dân’.
Một là,
về nguyên tắc, các Chính quyền và nhân
dân mỗi quốc gia, có thể thỏa thuận với nhau – quy trình chuyển giao QUYỀN
LỰC về cho Toàn dân.
Quá trình mở
hội nghị thỏa thuận như trên, về nguyên tắc sẽ rất thuận lợi. Vì nó phù hợp quy
luật tự nhiên.
Tuy nhiên thực
tế nó diễn biến chậm chạp … , vì thói quen ý thức của chính quyền và của mọi
người chưa chuyển đổi … ĐẠO ĐỜI thì chưa phổ biến rộng rãi …
(Chú
thích:
- Nếu quốc
gia nào đặt hàng, ĐẠO ĐỜI sẵn sàng hướng dẫn tổ chức ‘chuyển giao-quyền lực’ làm mẫu
tại một số địa phương.
- Và hướng dẫn tổ chức vận hành bộ máy ‘Toàn Dân – Làm chủ’ trực tiếp địa
phương. Để mọi người quan sát đánh giá, kết luận vấn đề.
Nếu xét thấy
hiệu quả, thì nhơn rộng ra. Bằng có quan điểm nào khác, thì cùng tranh luận chứng
minh.
Tất cả đều rất
đơn giản, nếu thế giới đồng ý tiến hành làm mẫu.
)
+ Với bộ máy các chính quyền (độc tài), vấn đề
diễn biến còn chậm hơn. Tuy nhiên nếu thế giới vận dụng thành công trật tự mới
… thì mọi thay đổi đều có thể xảy ra.
Hai là,
sau khi cơ chế ‘Toàn dân-LÀM CHỦ’ (xã hội) được xác lập
. thì việc
tiếp theo là lập ra ‘Hệ thống DIỄN ĐÀN – TOÀN DÂN rộng khắp’,
. để thu thập
mọi ‘Ý kiến, Quan điểm’ đa chiều của mọi người.
Trước hết nhằm
phục vụ cho địa phương. Kế là phần đóng góp trách nhiệm, cho bài toán chung quốc
gia và thế giới.
Tất cả hệ thống
DIỄN ĐÀN, đều hoạt động trên nguyên tắc - luận pháp logic T làm chuẩn.
- Luận pháp logic T, thuộc về bản năng tự nhiên của
số đông con người.
Vấn đề là gợi
ý đánh thức nó, thì tự động mọi người sẽ biết cách vận dụng.
Bên cạnh nếu
có các Tổ Nhóm hỗ trợ, thì mô hình ‘Toàn dân – Làm chủ’ sẽ mau chóng vận
hành hiệu quả.
Nhìn chung của
Mô hình ‘Toàn dân – Làm chủ’,
- Không
khác mộ hình ‘Xã hội Tư bản Phát triển’ (Tự do, phương tây) hiện nay.
- Vì cuối
cùng, quản lý quốc gia vẫn thuộc về nhóm ‘Thiểu
số’ (chuyên nghiệp) đảm trách.
Tuy nhiên vấn
đề ở đây khác ở chỗ,
- giờ đây ‘Toàn dân – Làm chủ’ điều khiển bộ máy ‘Thừa quyền’, theo mệnh lệnh.
Trong khi
phương thức cũ,
- ‘Chính quyền – Làm chủ’ điều khiển … ‘Toàn dân’ gánh hậu quả quay cuồn.
Tức là mô
hình xã hội mới, mở rộng cửa cho toàn dân LÀM CHỦ, mọi lúc khi cần.
- Tạm thời
trước mắt, mệnh lệnh ‘Thừa quyền’
(thiểu số) làm tốt các vấn đề được giao. Nếu kết quả suôn sẻ tốt đẹp, thì cứ thế
tiếp tục.
- Bằng không
đạt như ý, mọi công dân đều có quyền đặt vấn đề, và thống nhất đuổi việc.
Đây là khác
biệt cơ bản, mà lịch sử chưa từng có mô hình ‘Toàn dân-Làm chủ’ tuyệt đối, và lý tường như trên - khi đã đủ chứng lý..
(còn
tiếp)
HVS (12/12/2019)
Mọi sự trợ giúp ngân phí xin vui lòng gởi về:
ASIA COMMERCIAL BANK
- SWIFTCODE: ASCBVNVX
Account: 9442057
Master: LO CONG HOAN
Branch: CN CHO LON
hoặc
Số tài khoản : 123 893 919
Chủ tài khoản: LO CONG HOAN
Nơi mở tài khoản: ACB PGD Bình Phú.