A - BÚT KÝ NGÔN NGỮ A (tập 2)
PHẦN V
MÔI TRƯỜNG NGÔN NGỮ A
1. SỰ SỐNG VÀ TỔ CHỨC
Tạo hóa sinh con người ra để sống. Bản chất sự sống là tổ chức thành môi trường
sống. Đối với loài người, môi trường sống quan trọng nhất sau các điều kiện
tiền đề của môi trường sống vật chất cơ bản, là môi trường nội tâm phát triển
hay môi trường Tinh Thần phát triển.
Môi Trường Tinh Thần được đặt căn bản trên nền của một môi trường ngôn ngữ nhất
định. Mỗi một dân tộc đều chọn cho mình một môi trường ngôn ngữ nhất định để
quan hệ, thông tin, liên lạc, học tập, v.v... và phát triển.
Trong môi trường ngôn ngữ nào cũng thường chứa hai tính chất nội dung; tính chất
có lợi cho sự sống của tất cả mọi người và tính chất không có lợi cho sự sống
của tất cả mọi người. Vấn đề cần được lý giải phân tích là làm sao để con người
có thể loại trừ được tính chất sau, đồng thời giữ và phát triển tốt hơn tính
chất đầu. Kết quả... chúng ta có được một Môi Trường Ngôn Ngữ A, thỏa các yêu
cầu trên theo như cách đã được giới thiệu trong các chương trước.
Môi Trường Ngôn Ngữ A có nghĩa: khi con người, dù quan hệ dưới bất kỳ hình thức
ngôn ngữ nào, như ngôn ngữ Việt, Anh, Pháp, Đức, Nhật, Tây Ban Nha, v.v... mà
không mang nội dung như của ngôn ngữ A, thì các quan hệ đó sẽ khó tìm thấy cái
lợi tối ưu cho sự sống con người vậy.
Vậy, thế nào là Môi Trường Ngôn Ngữ A?
Môi Trường Ngôn Ngữ A là bao gồm tất cả các nội dung trong cuộc sống, mà cuối
cùng sao cho mọi con người đang sống đều phải được có điều kiện sống cơ bản và
ổn định. Đó là điều kiện tiền để để sự sống của mỗi người trong xã hội, đều có
thể tìm thấy được một mức sống Hạnh Phúc cơ bản, hành trang để xây dựng một mức
sống phát triển cao hơn và toàn diện hơn về sau.
Muốn xây dựng thành công môi trường ngôn ngữ A: con người, một là phải được
nhận thức về khái niệm sự sống và Hạnh Phúc; hai là phải được nhận thức về
quyền được học tập, tìm hiểu và tranh luận bình đẳng không giới hạn; ba là
quyền được đảm bảo đời sống vật chất cơ bản; bốn là quyền được sống có tổ chức
trên phạm vi toàn xã hội để được bảo vệ và phát triển bằng Lẽ Phải Hạnh Phúc;
và năm là quyền được sống thành công và Hạnh Phúc.
Trong năm quyền trên, quyền thứ tư có tính quyết định để biến ngôn ngữ A trở
thành hiện thực trong cuộc sống. Mọi người sinh ra đều có nhu cầu được sống
trong một tổ chức xã hội nhất định. Đó là nơi để con người phát triển về vật
chất và tinh thần, là sợi dây liên kết mỗi người với mọi người khác hay với
toàn xã hội một cách hiệu quả nhất. Nó giúp con người không bị rơi vào cái sai,
cái ác của cuộc sống. Nó bảo vệ con người được phát triển đúng hướng, chống lại
mọi cái ác khác tấn công dưới nhiều dạng và từ nhiều hướng một cách tích cực,
chủ động và thành công.
Thông thường, mọi con người sinh ra đều phải có một tổ chức gia đình, họ hàng,
v.v... để làm điểm tựa phát triển. Tuy nhiên, vì tai nạn, vì các biến cố hay vì
các nguyên nhân khác, nên trong các xã hội bao giờ cũng có những con người lớn
lên trong sự mất mát các điều kiện sống cơ bản ấy! Đó là một sự mất mát nặng về
tinh thần nhiều hơn về vật chất.
Mặt khác, sự sống trong một tổ chức gia đình mà sự nhận thức về thiện và ác,
hạnh phúc và đau khổ, cầu thị hay thiển cận, v.v... còn kém, thì hậu quả tinh
thần tiêu cực gây ra trong môi trường sống đó cũng rất lớn.
Hay kể cả trong các gia đình được xem là tốt đẹp, thì vẫn có thể còn nhiều vấn
đề phải suy nghĩ thêm. Chúng thường có mô hình giáo dục phổ biến là nặng về thu
vén hạnh phúc ấm êm trong nội vi của riêng tổ ấm gia đình họ. Nó có nghĩa như
một sự hướng nội để định tâm bình yên thông thường mà đa số gia đình vẫn thường
áp dụng.
Và sự định tâm của từng đơn vị riêng lẽ như thế không mang tính kết nối thống
nhất với sự định tâm chung của đơn vị tổng thể bao trùm lên nó, thì nó sẽ dễ
thành tai họa cho các đơn vị nhỏ đó. Vì thế, một gia đình tốt đẹp hôm nay sẽ
chưa hẳn giữ mãi được trong tương lai.
Song, nếu một xã hội thiếu một định tâm thống nhất, cộng với một gia đình thiếu
một định tâm thống nhất, thì có khi lại trở nên hợp nhau trong một chừng mực
nhất định. Nhưng tạo hóa, tổ chức to lớn cuối cùng, bao giờ cũng có một “định
tâm” thống nhất cho mọi sự định tâm, nên mọi sự vượt chuẩn của các tổ chức phụ
thuộc đều sớm muộn vấp phải sự khẳng định trên của tạo hóa.
Như vậy, nội dung của ngôn ngữ A là tạo sự kết nối cho tất cả các định tâm
riêng của mọi tổ chức riêng lẽ, từ phạm vi một cá nhân đến mọi khái niệm cộng
đồng vĩ mô khác, thành một khối thống nhất trên cơ sở lấy tâm định của tạo hóa
làm chuẩn.
Xét về thực tế ngày nay, mọi người đều có thể đi đến kết luận: xã hội hiện đại
nào cũng đều gần như đã hội đủ năm yếu tố yêu cầu trên; nhưng chỉ khác là tùy
xã hội, tùy quan điểm của mỗi nơi mà có cách lý giải về chúng khác nhau vậy
thôi. Chỉ có một điều duy nhất mà các xã hội ngày nay chưa đạt được: đó là đời sống
của con người xã hội vẫn còn sự cách biệt lớn giữa giàu và nghèo, sung sướng và
đau khổ, uy quyền và bất công, v.v...
Nhưng dù vậy, khi con người đã quen với cách sống của môi trường nào thì sẽ
thích ứng với môi trường đó để tồn tại và phát triển; nên sẽ không thích có sự
thay đổi lạ nào khác, trừ khi cái mới có khả năng giải quyết kịp thời và trực tiếp
các khó khăn mà con người đang sống trong xã hội hiện tại đang vấp phải.
Nếu chúng ta gọi môi trường sống của những thói quen quan hệ mới là Môi Trường
Ngôn Ngữ A hay Môi Trường A, thì môi trường sống của các thói quen quan hệ cũ
là Môi Trường Ngôn Ngữ B hay Môi Trường B.
Chúng ta hãy định nghĩa “Ngôn Ngữ” trong khái niệm trên là: mọi hiện tượng quan
hệ giữa con người với con người một cách toàn diện nhất. Trong “Ngôn Ngữ” bao
gồm các nội dung như: Lý Lẽ Riêng và Chung, lời nói, chữ viết, lẽ phải và vô số
các nội dung, hình thức, hiện tượng quan hệ khác mà con người khó có thể xác
định hết được qua các từ ngữ, lời lẽ cụ thể v.v..., hay chúng chỉ có thể được
xác định hiệu quả bằng tùy theo cái tâm cảm nhận của mỗi người. Hay sự biểu
hiện của “Ngôn Ngữ” là Hành Động; và mọi Tư Duy sinh tồn của con người cũng đều
thuộc về “Ngôn Ngữ”.
Như vậy, ngôn ngữ A chỉ có ích cho ngôn ngữ B khi nó lý giải được trực tiếp các
bế tắc cụ thể, phát sinh từ các quan hệ sinh tồn đa dạng của con người đang
sống trong môi trường ngôn ngữ B.
Bản chất của ngôn ngữ B là chỉ lý giải được các hiện tượng cụ thể với các bằng
chứng, nguyên nhân cụ thể như: tận mắt thấy, tai nghe, miệng nếm, mũi hửi, tay
chạm, v.v... Trong khi bản chất thật của sự sống con người là bị chi phối bởi các
nguyên nhân vô hình là chính, so với các nguyên nhân hữu hình cụ thể; nên ngôn
ngữ B rất khó có cơ may giải quyết triệt để mọi bế tắc của các vấn đề mâu thuẫn
giữa con người với nhau, xảy ra trong môi trường B.
Trong quan hệ, thường các nguyên nhân gây bế tắc đều được bắt đầu trước từ
những nguyên nhân đơn giản; nhưng vì chưa hay thiếu ý thức giải quyết, để đến
khi chúng phát sinh thành lớn chuyện, thì hậu quả phải giải quyết sẽ rất khó.
Và khi phải giải quyết một sai lầm cụ thể, thì phần nhiều con người lại thiếu
khả năng lý giải tìm ra nguyên nhân gốc vô hình của nó mà hay quen dùng uy
quyền, mệnh lệnh áp đặt, hay những lý giải chủ quan, v.v... để giải quyết sự
việc; nên kết quả đạt được thường không mang tính lâu dài và tận gốc.
Khi có được những kết quả đạt được nhất thời trên, thì có một số là do e sợ
trước các áp đặt có tính bạo lực hơn là con người “giác ngộ” ra sai lầm để tự
nguyện sửa chữa. Bằng sự áp đặt bạo lực như trên, các nguyên nhân vô hình sẽ
vẫn tiếp tục còn tồn tại và trở thành nguy hiểm hơn. Họa vô hình, do không được
nhận thức đầy đủ để diệt trừ, giờ đây nó sẽ càng trở thành những nguyên nhân đe
dọa và phá hoại trực tiếp đến đời sống tinh thần vô hình của con người một cách
tệ hại và nhức nhối hơn.
Khả năng tinh thần bị suy sụp, con người sẽ tất yếu trở nên ngày càng bế tắc,
hung dữ, nguy hiểm, bất an, v.v... hơn; để cuối cùng, nó bất chấp mọi sự ngăn
cấm, e sợ, uy quyền, v.v..., bất ngờ gây ra những xung đột với hậu quả nhiều lần
trầm trọng hơn cho con người so với lúc đầu.
Đến đây, con người tổ chức những cuộc cách mạng, những chiến dịch truy quét,
những đòn trừng phạt, những đợt vận động tuyên truyền, giáo dục, v.v... để nhằm
dẹp yên các tiêu cực ấy nhưng vẫn bằng các thói quen của những biện pháp cũ: cụ
thể, hữu hình, chính xác, bạo lực, v.v...; với các lý lẽ biện minh: “Trước đây
cũng những biện pháp như thế đã đạt thành công và hiệu quả, vậy nay phải cần
được phát huy chúng với cường độ cao hơn!” (?!).
Nhưng con người vẫn không thấy một điều: phải chăng cái hôm nay và cái hôm qua
cũng đều do một nguyên nhân gây ra, nhưng cái hôm nay bao giờ cũng có tính chất
tác hại nặng hơn cái hôm qua, vì chúng là hệ quả tất yếu của những sai lầm lần
trước...
Và con người cũng quên rằng: nếu người thiện dùng mãi biện pháp ác sai yêu cầu,
thì một ngày kia người thiện cũng sẽ trở thành ác khi nào không hay! Bởi nó đã
thuộc về bản chất của qui luật vận động tinh thần của não người, thông qua các
qui luật vận động của vô thức và ý thức trong đó vô thức có chức năng phản ánh
khách quan mọi sự vận động tồn tại của mỗi cá nhân chủ thể.
Khi các nhận thức của con người về ác và thiện, đau khổ và hạnh phúc bị lẫn
lộn, thì đó là cái họa lớn của sự sống làm người vậy. Nó như cây trốc gốc, như nền
nhà bị lở v.v...; bởi chúng là cái vốn vô hình, được dùng làm kim chỉ nam vạch
hướng cơ bản cho mọi sự phát triển tương lai của mỗi đời người hay của mỗi xã
hội.
Nếu đó là một hiện tượng xảy ra đối với một con người ra sao, thì đối với một
xã hội cũng xảy ra gần tương tự. Chỉ khác bên này đơn vị nhỏ, bên kia đơn vị
lớn, bên này khó tìm “nhân” nhưng có lẽ dễ trị hậu quả hơn, bên kia như dễ tìm
“nhân” nhưng rất khó trị hậu quả.
Có phải tất cả đều do ngôn ngữ B gây ra? Vậy điều kiện để ngôn ngữ A giúp ngôn
ngữ B một cách cụ thể, là chỉ cho ngôn ngữ B thấy các nguyên nhân vô hình là
nguyên nhân tận cùng của các vấn đề phức tạp của con người và xã hội.
Như chúng ta đã biết, đó là nguyên nhân về A bẩm sinh và A nhân tạo; A bẩm sinh
là nguyên nhân thuận lợi, nguyên nhân A nhân tạo mới là yếu tố gây trở ngại cho
sự sống con người. (GC: A bẩm sinh cũng là: A nguyên thủy).
Giải quyết nguyên nhân A nhân tạo bằng hai cách: bằng nhận thức và bằng tổ chức
môi trường xã hội. Bằng nhận thức, chúng ta đã có phương pháp rèn luyện tinh
thần từ Phức 12, như một sự lý giải tiền đề. Bằng tổ chức, đó là sự tạo điều kiện
để mọi người cùng được tham khảo về A: bằng cách sao cho mọi con người đều có
thể tìm cho mình một tổ chức làm điểm tựa liên kết với toàn xã hội; để sau đó,
mỗi người với mọi người đều có thể hiểu và cảm thông với nhau, mà cùng xác định
chung thành một hướng phát triển quyền lợi thống nhất, hiệu quả và không bạo
lực. Hay đó là những việc làm của Đơn 13 vậy.
2. TỔ CHỨC TỐI ƯU
Là một tổ chức đơn giản nhất và hiệu quả nhất. Đơn giản, vì mọi người đều có
thể tham gia; hiệu quả, vì khi mọi người đều được trang bị nhận thức đúng, thì
Hành Động bao giờ cũng sẽ được đúng và thành công.
Ngày nay, dù ở đâu, con người cũng hình thành ra các mô hình tổ chức để mưu cầu
sự sống và Hạnh Phúc. Nhưng có chăng, tổ chức nào chỉ bằng con đường phát triển
nhận thức trong điều kiện cho tự do tranh luận bình đẳng chung với nhau, lại có
thể tập hợp được rộng rãi tất cả mọi người một cách thống nhất, tự giác, phi
bạo lực và Hạnh Phúc?
Biết rằng một khi “tổ chức” chưa chứng minh được một cách khoa học về “thế nào
là sự sống và hạnh phúc” của con người một cách thống nhất, thì tất yếu mỗi con
người sẽ tự đi tìm chúng theo nhiều hướng khác nhau ngoài các nội dung, lý lẽ,
lý tưởng hay các khẩu hiệu mà các tổ chức đó muốn dùng làm tâm điểm tập hợp mọi
người. Vậy phải chăng vấn đề trên vẫn đang là một thách thức cho mọi con người
trong thời đại văn minh?
Nếu nói bản chất của con người là đi tìm “sự sống và Hạnh Phúc”, và nếu ngôn
ngữ A chứng minh thành công con đường dẫn đến mục đích trên một cách hiệu quả;
thì mọi tranh luận và đi tìm của con người, cuối cùng cũng sẽ phải quay về gặp
nhau tại lời giải của ngôn ngữ A vậy.
Giả thiết, ngôn ngữ A là một tiền đề có khả năng cho sự thành lập một tổ chức
tối ưu như trên, dựa trên các thành quả chứng minh mà nó đã đạt được. Nếu vậy,
ngôn ngữ A sẽ phát họa về một tổ chức tối ưu như sau:
Bản chất của một tổ chức tối ưu là: nó không cần dùng đến các biện pháp bạo lực
nội tại để làm phương tiện áp đặt máy móc với chính nó, bởi bản chất con người
là cần sự tự giác mới vững bền. Do đó, nếu nhận thức chưa thông thì mọi biện
pháp áp đặt bạo lực chỉ là một biểu hiện yếu kém và sai lầm của con người, trong
quá trình tiến hóa khả năng nhận thức của con người nói riêng, của xã hội và
của lịch sử nhân loại nói chung.
Để xây dựng thành công một tổ chức tối ưu, chúng ta cần nghiên cứu nó cẩn thận
thông qua một số điều kiện ban đầu như sau:
Một là; bằng cách nào chứng minh, mọi con người sinh ra đều có giống nhau một
mục đích sống.
Hai là; để mục đích sống ấy được thực hiện thành công, thì mọi người phải cùng
giúp nhau tạo điều kiện cho nhau thực hiện nó; nếu thiếu một trong tất cả ai
liên quan, thì mục đích ấy sẽ khó có thể được hoàn thành trọn vẹn.
Ba là; môi trường giúp đỡ giữa con người với nhau, trước hết và duy nhất, chỉ
có thể là môi trường thông tin để mọi người có thể thông hiểu nhau hơn, cũng
như để có thể tương trợ trực tiếp lẫn nhau theo đề nghị của người cần có sự
giúp đỡ đó.
Bốn là; mọi con người đều có quyền tự do riêng cá nhân để mưu cầu một sự sống
thoải mái tối thiểu, để nhằm xây dựng một mức sống Hạnh Phúc nhất định; nên
không ai được xâm phạm quyền sống cơ bản ấy đối với người khác hay người khác
đối với mỗi người, theo mức người đó mong muốn (tất yếu không có hại đến người
khác).
Năm là; yếu tố quyết định cho sự hoạt động thành công của một tổ chức tối ưu,
là tùy thuộc vào số lượng và chất lượng nội dung thông tin được cung cấp nhằm
làm tăng mức sống cho đối tượng nói riêng và cho tổ chức nói chung. Do đó mọi
người phải tạo điều kiện để sẵn sàng tiếp nhận hay trao đổi thông tin với nhau,
mỗi khi cần thiết. Tuy nhiên, cũng không phải vì thế mà điều đó lại trở thành
là nguyên cớ để con người gây phiền hà đến quyền sống cơ bản của nhau, như đã
giao ước với nhau tại điều bốn ở trên.
Sáu là; mọi thông tin quan hệ từ đơn giản nhất đến phức tạp nhất đều có giá trị
như nhau, nếu mỗi khi có một yêu cầu cần chứng minh về sự đúng sai của thông
tin đó từ các góc độ khác nhau, kể cả phải công khai hóa chúng ra mà người đề
nghị sẽ phải chịu trách nhiệm.
Bảy là; vì vậy một hệ thống tiếp nhận, lý giải, trao đổi, xử lý, lưu trữ,
v.v... mọi thông tin một cách khoa học, thuận tiện và hữu ích, để mọi người dễ
tham khảo về “sự sống và Hạnh Phúc”, phải là một việc làm mang tính chiến lược
sống còn để phát triển thành công một tổ chức tối ưu.
Tám là; trong một tổ chức tối ưu không có hiện tượng người này có quyền quyết
định đối với người kia, mà tất cả đều phải trên cơ sở chứng minh ai đúng, và
mọi người đều có trách nhiệm ngang nhau để thực hiện kết quả chứng minh đó. Tuy
nhiên, giữa yêu cầu tức thời của một quan hệ cần được giải quyết và lượng thời
gian cần có để chứng minh sự đúng sai đó, sẽ là một mâu thuẫn cần được nghiên
cứu để có được một sự sắp xếp hợp lý nhất.
Chín là; một tổ chức tối ưu, nếu không thể chỉ ra được những lợi ích cụ thể
trước mắt, để làm niềm tin xây dựng một giá trị lợi ích lâu dài và lý tưởng về
sau một cách thực tế và hợp lý, thì nó sẽ trở thành không tưởng.
Mười là; vì lẽ đó, trong một tổ chức tối ưu, trước tiên mọi người phải không
còn thất nghiệp và phải có được một mức sống Hạnh Phúc cơ bản hay tối thiểu, để
từ đó làm tiền đề xây dựng một mức sống Hạnh Phúc lý tưởng về sau.
Trong mười điều kiện trên, điều kiện đầu tiên là yếu tố quyết định nhất cho sự
hình thành hay không và theo đặc tính nào, trong quá trình xây dựng, triển khai
và phát triển một “tổ chức tối ưu”.
Ngôn Ngữ A chứng minh rằng: giá trị sự sống con người là do bắt nguồn từ cái
tâm của mỗi người mà ra. Vì vậy, cuối cùng mục đích sự sống hay Hạnh Phúc của
con người rồi cũng sẽ phải quay về với cái nội tâm nguyên thủy đó, như một lối
thoát tất yếu cho mọi sự sống đời thường của con người, nhằm đạt đến một sự
thỏa chí tuyệt đối nhất cho mọi ước vọng vô hạn, phát sinh từ cái bản năng sống
tự nhiên có trong mỗi con người.
Tuy nhiên, đời người được khởi đi từ tâm để cuối cùng lại quay về với tâm theo
một phương thức nào hay theo một con đường nào, là một vấn đề cần phải được chỉ
rõ và chứng minh, thông qua khả năng và kinh nghiệm sống thực tế của mỗi người
hay của sự tham gia góp sức của một tổ chức.
Nếu con người vạch được đúng đường, thì sự sống sẽ phát triển thuận lợi và Hạnh
Phúc. Nếu con người vạch sai đường hay không vạch đường, thì kết quả sự sống sẽ
thành uốn khúc, vô vị, thô thiển, v.v..., hay thành thất bại, ngoài sức chịu
đựng của mỗi đời người cũng như của mỗi xã hội.
Để vạch đường cho tâm chạy về tâm, ngôn ngữ A đã giới thiệu một phương thức
vạch đường khoa học từ đầu tác phẩm đến đây. Vấn đề còn lại là tùy vào sự vạch
đường trong thực tế, thông qua các hình thức tổ chức, các nội dung thông tin và
sự cố gắng tích cực từ nơi mỗi người để quyết định sự thành hay bại của một lý thuyết.
Nếu gọi tổ chức là bộ xương, thì nội dung thông tin là phần da, thịt và nội
tạng để chấp nối thành một cơ thể sống hoàn chỉnh. Phần chấp nối mà không khéo
thì bộ xương dù có tốt, chắc bao nhiêu cũng chẵn còn giá trị gì.
Lý lẽ dựa trên nền tâm, sẽ là một hệ thống nội dung vô cùng linh hoạt và chặt
chẽ. Nó vừa có, nó cũng vừa không, nó vừa cụ thể vừa vô hình, nó vừa trừu tượng
vừa rõ ràng, v.v... Người không biết tưởng như đùa và khinh, người biết thì mới
thấy quý và bỏ công phát triển nó. Vì nó mới là nơi để chứng minh hiệu quả nhất
cái chân giá trị sống của mỗi con người, hay của sự tổng kết sau cuối mỗi đời
người trước khi sang thế giới khác, là gì. Và cũng chính nó sẽ là nơi để chỉ ra
nhân cách sống của mỗi con người vậy.
3. NHỮNG LÝ LẼ THÔNG DỤNG
Sống trong một tổ chức tối ưu, con người không phải dành phần lớn thời gian để
nghiên cứu các đề tài xuyên lục địa, xuyên thời gian và không gian, mà sẽ dành
nhiều công sức cho những lý lẽ thông dụng.
Chúng ta hãy lượt qua một vài lý lẽ thông dụng đó:
+ Mọi con người sinh ra để sống và để chết. Sau cái chết, con người làm gì, con
người là ai? Nếu đến hỏi các tôn giáo, con người sẽ được nghe những lời đáp của
tôn giáo. Nhưng nếu đến hỏi các nhà khoa học, thì sẽ nhận được những câu trả
lời rất ư là vật chất, nó không có lợi cho tâm lý con người.
Sau cái chết hay trước khi sinh ra, mỗi con người có là gì không, hay nó chỉ là
sự chuyển hóa về vật chất như các nhà khoa học đã chứng minh? Nhìn từ góc độ
tinh thần hay tâm lý, thì chỉ với những câu trả lời đơn giản như trên, e rằng
sẽ có thể là một tai họa đối với trẻ thơ và cả với người lớn.
Tinh Thần con người là một hiện tượng đặc biệt, có một không hai trong thế giới
vận động muôn hình của tạo hóa đến nay. Hiện tượng đó, ngày nay, vẫn chưa được
khoa học lý giải đầy đủ. Vậy có mất mát gì để hình dung một thế giới tốt đẹp
đang tồn tại trước và sau mỗi sự sống của mỗi đời người; như từ đã rất lâu,
trên ngàn năm, các tôn giáo đã biết vận dụng để làm đẹp tinh thần và tâm hồn
của loài người tồn tại.
Sự hình thành một lối thoát đơn giản đó, cũng là một yếu tố cần thiết để làm
đẹp và làm tăng thêm sức sống cho con người, cho ngôn ngữ A hay cho Khoa Học
Tinh Thần. Giống như con người mua một món hàng, cái cần sử dụng là chất lượng
và nội dung của món hàng đó; nhưng không phải vì thế mà hình thức, màu sắc, mùi
vị, hộp đựng, giấy gói, v.v... bị khinh suất.
Ai cũng biết hình thức là không quan trọng bằng, nhưng ai cũng muốn chọn hình
thức sao cho vừa ý nhất. Vấn đề sống và chết lại càng quan trọng biết bao đối
với mỗi đời người. Do đó, con người cũng nên trang hoàng cho chúng được hợp lý
và khoa học hơn, để sao cho sự sống của xã hội hiện đại hòa hợp với cái thiện
được tự nhiên và thành công hơn.
Sự chính xác và hiệu quả của khoa học, không phải chỉ đối với những kết luận về
những vấn đề đã biết là đủ, mà còn có trách nhiệm kết luận về cả các vấn đề
ngoài giới hạn hiểu biết của loài người, cho dù ai cũng đã biết về cái khả năng
giới hạn đó của loài người. Bởi nếu không vậy, thì nền văn minh khoa học hiện
đại sẽ có thể vô tình thành có hại cho sự sống của con người do sự phiến diện
vật chất của nó, mà bỏ quên đi cái bản chất chính của con người là nằm tại tinh
thần, nó vừa trừu tượng vừa cụ thể, vừa ẩn và cũng vừa hiện.
+ Trong thời đại ngày nay, đời sống con người đã hòa nhập vào sự phát triển của
khoa học, nên sự tốt hay xấu của sự sống con người cũng sẽ có liên quan mật thiết
đến những cái hay dở của khoa học hiện đại.
Khi khoa học còn chưa giải đáp được về đời sống tinh thần của con người là gì,
thì sẽ có nghĩa, con người cũng không thể chứng minh được sự đúng sai trong
lĩnh vực này; dẫn đến, con người hay tìm cách trốn tránh trách nhiệm cá nhân do
mình gây ra, vì sợ phải đụng đến các bế tắc khi nó có liên quan đến các vấn đề
tinh thần kia.
Ví dụ, trước nguy cơ bùng nổ dân số, con người ý thức ra nhu cầu phải kế hoạch
hóa gia đình, với chỉ tiêu “mỗi gia đình nên chỉ có từ một đến hai con”.
Con người ai cũng biết rằng gia đình đông người thường vẫn vui hơn, khi mức
sống đã cho phép. Khi có chuyện khó khăn, có chuyện cần sự hợp sức của nhiều
người đáng tin cậy, v.v..., thì rõ ràng có phải anh em đông thường có lợi thế
hơn so với những gia đình có rất ít người.
Nếu rủi như cha mẹ mất sớm, thì một con sẽ phải sống nhờ vào ai khi anh em ruột
không có? Hay như con cái có sự không may gì, thì có phải gia đình ít con phải
gánh chịu một sự mất mát to lớn nhiều hơn gia đình đông con. Nếu đó là sự mất
mát về tính mạng thì sẽ lấy gì bù đắp, nếu gia đình chỉ có một con hay hai con.
Chưa kể đến khi tuổi già, bệnh tật, kinh tế khó khăn, v.v..., thì ai sẽ chăm lo
cha mẹ chu toàn bằng con cái?
Những khó khăn trước mắt đó xảy ra hằng ngày và về mặt nào đó, là rất quan
trọng; nó ảnh hưởng không nhỏ đến cách suy nghĩ, cách sống, và sự hạnh phúc
vững bền của mỗi gia đình và của mỗi đời người. Vì không ai có trách nhiệm trả
lời những âu lo đời thường đó, nên con người có khi khó thật về kinh tế nhưng
vẫn “liều” sinh thêm, như muốn để cho vơi đi những kiểu suy nghĩ mong lung như
trên.
Ngoài ra, nếu sinh gái thì lớn lên phải theo chồng; nếu không theo chồng thì
cũng đa số bị lệ thuộc nhiều vào chồng, v.v...; nếu không lấy chồng, thì một
thân gái cũng khó lòng bôn ba ổn định được sự sống hay giúp gia đình bằng nam
giới trong cùng trường hợp tương tự, v.v... Vì thế dù đã nhiều con, nhưng nhiều
cha mẹ vẫn muốn sinh thêm con trai là vậy.
Chưa kể sinh gái thì tên họ, ai lo chuyện nối dòng nối dõi, ai lo chuyện hương
khói nhang đèn tổ tiên, mồ mã ông bà? Thuở nay, những chuyện đó thường giao cho
đàn ông lo, người đàn bà bận bịu bếp núc, con cái, v.v... còn rảnh đâu lo
chuyện ngàn năm chưa được ai giao ấy?
Nếu con người đừng “bỏ lửng trách nhiệm” của mình để lý giải thấu đáo mọi ngọn
ngành, có chứng minh hiệu quả cho các vấn đề trên, thì có lẽ xã hội sẽ chận
đứng được nạn dân số hiệu quả hơn.
– Việc giáo dục, thời nào cũng được con người quan tâm; “vì lợi ích mười năm
trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người!” Nhưng giáo dục sao cho đạt kết quả
toàn diện, thì loài người vẫn còn đang tìm câu trả lời.
Người ta thường nói, môi trường giáo dục phải là sự kết hợp giữa gia đình, nhà
trường và xã hội. Nhưng kết hợp ra sao, ai là người chịu trách nhiệm chính
trong sự phân công kết hợp ba yếu tố đó? Thường trong xã hội hiện đại và văn minh,
người ta vẫn bỏ trống khâu chịu trách nhiệm chính ấy. Vì vậy, chất lượng giáo
dục của xã hội ngày nay luôn vẫn là những đề tài muôn thuở, làm cho nhiều người
ăn không ngon, ngủ không yên!
Vì vậy, con người phải biết thông cảm nhau đối với những trường hợp phạm tội.
Đâu phải con người không muốn thiện, nhưng có vô số trường hợp khó khăn về hoàn
cảnh, v.v... hay về giáo dục, mà dẫn đến con người bị thiếu được chỉ dẫn đâu là
đường sống chân thiện, thì làm sao con người có thể sống thiện?
Có người lý giải một cách ngây ngô: “tại sao mọi người sống thiện được, còn
người này sao lại không?. Do vậy, có thể kết luận chắc rằng: cái xấu, cái tội
lỗi là phải do chính người đó tự gánh lấy trách nhiệm, chứ không được đổ cho
nguyên nhân gì khác!” (?!).
Sự thật, chính những người có những suy nghĩ như thế có khi mới thật là người
không đúng. Bởi họ chỉ mới thấy được mình mà chưa thấy và hiểu được hoàn cảnh
người khác, hay hoàn cảnh xã hội. Điều đó có khác gì chủ nghĩa phân biệt chủng tộc,
chủ nghĩa đề cao người thượng đẳng, chủ nghĩa nô lệ, chủ nghĩa phát xít, chủ
nghĩa bóc lột, v.v... là những biến tướng của các cái ác giữa con người với
nhau.
Đó cũng không khác gì hiện tượng, con người đã “bỏ lửng trách nhiệm” đào tạo và
giúp nhau đến nơi đến chốn, thay vì phải sống quay lưng, khinh chê hay hiểu sai
nhau như thế. Hay đó là sự “bỏ lửng trách nhiệm” của các ngành giáo dục trước
trách nhiệm về đào tạo nhân cách con người chăng?
+ Trong xã hội hưởng thụ văn minh, con người lại thường hay có thói quen cấm
cái không cần và không cấm cái cần phải cấm. Hoặc về nhận thức, khi thì thái
quá để bị thành cực đoan, khi thì thụ động quá thành hư việc. Tất cả phải chăng
là do sự yếu kém trong nhận thức của con người về khoa học Tinh Thần mà ra?
Ngày nay con người hay đề cao nhân quyền một chiều, theo hướng phát triển vô
hạn về quyền tự do cá nhân, gia đình, xã hội, v.v... Đó là cách hiểu khá máy móc,
thô thiển hay mang tính vật chất vậy!
Loài người được sinh ra bởi tạo hóa; vì vậy, mọi nhu cầu tự do của con người
chỉ có giá trị trong giới hạn của các qui luật của tạo hóa, nếu không con người
sẽ bị mất tự do. Có nghĩa là, mọi sự tự do nào cũng phải có tổ chức, có luật lệ
áp đặt lên nó. Hay bên cạnh sự “tự do” là phải đi liền với sự “nô lệ tự
nguyện”, thì giá trị của sự tự do đó mới hoàn hảo và vững bền.
Ví dụ, con người muốn có tự do, thì cần có ăn, uống, hít thở không khí, v.v...
Đó là những qui luật về “quan hệ vật chất”. (*) Về “quan hệ con người” (**)
cũng như thế, cũng có các qui luật chi phối nhưng điều kiện ý thức về chúng
phức tạp hơn. (GC: (*): quan hệ con người với vật chất; (**): quan hệ giữa con
người với nhau.)
Về “quan hệ con người”, xã hội văn minh nào cũng có những bộ luật xác định các
phạm vi lẽ phải trong quan hệ con người với nhau. Tuy nhiên, đó chỉ mới là các
luật mang tính Vật Chất hữu hình cụ thể. Nó mang tính hình thức hơn là nội
dung, nên sẽ khó truy xét hiệu quả bản chất thật của các vấn đề mâu thuẫn mang
tính vô hình xảy ra trong các quan hệ con người với nhau đó.
Vì bản chất sự sống con người là Tinh Thần vô hình, nên cũng cần phải có các bộ
luật về Tinh Thần vô hình, thì sự công bằng mới thật sự được bảo vệ hiệu quả, và
khái niệm nhân quyền mới được thống nhất và sáng tỏ.
Bộ luật Tinh Thần, do bản chất, không thể được ghi thành văn bản cụ thể và
chính xác như các bộ luật Vật Chất đã có, mà nó chỉ được ghi chủ yếu qua khả
năng cảm xúc từ tâm thiện của mỗi người. Như vậy, con người muốn sử dụng được bộ
luật này, thì bắt buộc mỗi người phải có khả năng nhìn vào cái tâm thiện của
mình mà đọc.
Để nhìn tâm thiện, thì mọi người muốn sống thiện đều có thể nhìn được. Thông
thường, tâm thiện được hình thành ngẫu nhiên bởi hoàn cảnh, hay bằng sự học tập
rèn luyện có chủ đích theo một mô hình lý lẽ nào đó của xã hội, của tổ chức,
hay của một triết lý, của một cá nhân, v.v... Tuy nhiên, tất cả đều cần có một
ngôn ngữ A để tạo môi trường thống nhất; nếu không vậy, luật đọc ra sẽ bất nhất
thành sai và có thể biến thành các mâu thuẫn xung đột với nhau, v.v...; nhất là
trong môi trường sống Bình Thường, nơi con người có đủ điều kiện để phát triển
mục đích sống một cách đa dạng.
Tùy cái tâm của mỗi con người sâu hay cạn, đơn giản hay phức tạp, và tính thiện
được phát triển tập trung trên lĩnh vực nào, hoàn cảnh nào, v.v..., để nó đòi
hỏi mỗi cá nhân con người đó phải có một trình độ hay một khả năng lý giải
tương ứng, nhằm có thể giúp duy trì và phát huy tính thiện của họ được lâu dài.
Như thế để đọc được tâm, mỗi người cũng cần nên có một số nhận thức lý luận
nhất định để có khả năng phân giải sự sống. Vốn nhận thức đúng ít thì đọc được
ít, vốn nhận thức đúng nhiều và rộng (về quan hệ con người) thì đọc được nhiều.
Nội dung đọc được từ bộ luật Tinh Thần, sẽ được con người diễn giải thành Ý
NGHĨA của mỗi Hành Động của bản thân mình và của mọi người là gì. Mỗi ý nghĩa
đó sẽ mang “một nội dung lẽ phải” nhất định. Trong số đó, Lẽ Phải Hạnh Phúc
(hp) mang ý nghĩa “quyền lợi mỗi người phải hòa nhập thống nhất với quyền lợi
chung của mọi người”; và Lẽ Phải Không Hạnh Phúc (khp) mang ý nghĩa “quyền lợi của
một người hay quyền lợi chung của nhiều người, không thể hòa nhập thống nhất
với quyền lợi chung của tất cả mọi người”.
Như chúng ta đã biết, mọi con người đang sống đều phải có một mục đích sống
nhất định. Nếu xét theo luật pháp thông thường của các xã hội ngày nay, thì mọi
mục đích sống mang tính (khp) của mỗi con người là bất khả xâm phạm, khi nó chưa
có đủ bằng chứng phạm tội cụ thể.
Nhưng ngược lại, Luật Tinh Thần đã có thể vận dụng ngay từ đầu, để vạch và
phòng ngừa tội danh của chúng ngay từ trong trứng nước, hay ngay từ những suy
nghĩ ban đầu đó của con người. Điều đó, nó vừa có lợi cho an ninh cộng đồng,
nhưng quan trọng hơn, nó vừa giúp bảo vệ hiệu quả sự sống Hạnh Phúc cho chính bản
thân của mỗi con người đó.
Bởi ngày nay, con người quen nghĩ rằng: “tôi muốn làm gì cũng được, miễn là
không phạm tội!” Nhưng đó mới là không phạm “tội Vật Chất”, còn biết đâu, họ
đang phạm “tội tinh thần” đối với chính mình, với xã hội, với mọi người, v.v...,
mà vẫn không hay biết. Tại sao?
Ai làm gì cũng đều có mục đích: Vậy mục đích đó là gì? Có ý nghĩa như thế nào?
Mỗi con người đều phải có trách nhiệm trả lời các câu hỏi đó, trước khi chúng
có thể gây thành hậu quả xấu cho sự sống con người nói chung. Con người có thể
chọn ý nghĩa mục sích sống: vì lợi ích cá nhân, vì lợi ích nhiều người hay vì
tất cả mọi người.
Thông thường câu trả lời sẽ được nghe là: “quyền lợi cho chính cá nhân đó là trên
hết, hoặc cho gia đình của cá nhân đó là trên hết, v.v...”. Như thế, tùy phạm
vi quyền lợi đem đến cho bao nhiêu người của mỗi ý nghĩa Hành Động đó trong
cuộc sống, mà con người có thể suy ra được mức sống Tinh Thần của mỗi con người
đó là cao hay thấp thế nào.
Biết rằng, một ý nghĩa sẽ được gọi là (hp), chỉ khi nó nhằm tạo được sự phát
triển quyền lợi của mỗi người trong sự hòa nhập thống nhất với quyền lợi chung của
mọi người. Điều đó có nghĩa, không cứ người nghèo, người lao động đơn giản, là
kém (hp); mà ngược lại, họ vẫn có thể có rất nhiều; trong khi người có uy
quyền, làm việc to lớn, thu nhập giàu có, v.v... thì họ vẫn có thể không có
(hp) mà chỉ có (khp) mà thôi!
Bởi (hp), nó chỉ tùy thuộc vào khả năng nhận thức của mỗi người về các ý nghĩa
Hành Động, mà người đó đã, đang và sẽ tạo ra trong cuộc sống. Hay nó chỉ tùy
thuộc vào giá trị của sự phát tâm tích cực trong Hành Động của người đó là chính,
sau đó nó mới lệ thuộc vào qui mô hay các thành tích hình thức đạt được từ các
Hành Động đó. Yếu tố sau chỉ như là những yếu tố phụ để bổ sung, trên cơ sở của
một (hp) đã được tạo dựng căn bản từ yếu tố đầu.
Chúng ta cũng cần lưu ý một vấn đề: trong môi trường ngôn ngữ B, chính cái qui
mô hình thức của các thành tích Hành Động của con người, thường dễ thành là
nguyên nhân trực tiếp làm hỏng mất dần các (hp) đã được tích lũy trong mỗi con
người cho dù đã rất cảnh giác.
Bởi trong môi trường ngôn ngữ B, con người hay quen vội lao đến các mục đích
sống đang đòi hỏi thúc bách trước mắt, nên không còn đủ điều kiện và thời gian
để tự hiểu và đánh giá hết về các Hành Động của mình. Và điều đó sẽ sớm muộn gây
hậu quả bất lợi cho sự sống “ngắn ngủi” của mỗi đời người. - Khởi đầu, bao giờ
con người cũng vẫn rất tự tin trước những mục đích mời gọi, để rồi kết quả của
sự sống lại tiếp tục lẩn quẩn vào những vấp ngã, mà các kinh nghiệm sống của
những người đi trước đã không ngừng cảnh báo về các hậu quả của nó!
Hay cũng có bao người đã cố gắng làm theo những lời dự báo trên, nhưng phải
chăng vì không định được đường đến (hp) là sao, nên cuối cùng cũng phải đành
chịu vấp ngã trên chính cái hậu mà mình đã từng cố gắng tránh khỏi!
Như vậy, từ góc độ của ngôn ngữ A cho rằng: “quyền tự do phát triển toàn diện
của con người chỉ trở nên hiện thực, nếu khi mọi người cùng có ý thức tôn trọng
đồng thời Bộ Luật Vật Chất hữu hình và quan trọng hơn, phải biết tôn trọng Bộ
Luật Tinh Thần vô hình của cuộc sống!”
Nói cách khác, con người thế kỷ hiện đại hay có thói quen “bỏ lửng trách nhiệm”
của mình trước yêu cầu phải công khai hóa Bộ Luật Tinh Thần vô hình, để mọi
người dễ thống nhất được nhận thức và Hành Động một cách hợp tình, hợp lý trong
quan hệ sinh tồn với nhau.
Hay đó là điều kiện để làm tăng dần số (hp) Hạnh Phúc cho mọi con người, và
đồng thời loại dần các (khp) nguy hại ra khỏi đời sống con người và xã hội.
Hiệu quả của vấn đề trên sẽ tùy vào sự hình thành của Bộ Luật Tinh Thần; mà cụ
thể nó có nghĩa là, mỗi người nên có dịp tìm hiểu lại mục đích sống của đời
mình đang theo đuổi là gì, nó có ý nghĩa ra sao? Để sau đó, mọi người có thể
thông tin và bàn luận bình đẳng với nhau về tất cả những gì có lợi cho sự sống
thống nhất, bình yên và Hạnh Phúc của mọi người, bên cạnh vai trò đóng góp tích
cực của một ngôn ngữ A như đã giới thiệu.
4. TRANH LUẬN Ý NGHĨA MỤC ĐÍCH SỰ SỐNG
Cuối cùng, mục đích của vấn đề muốn đạt là: con người chỉ cần thông qua tranh
luận ý nghĩa mục đích sự sống, là sẽ nhận ra được con đường để đi đến sự sống
Hạnh Phúc đời người là gì. Từ đó, nó sẽ giúp con người tránh được những sai lầm
không đáng có và thực hiện được những gì, mà từ lâu con người vẫn cảm thấy như
vẫn còn thất bại trước vấn đề “sự sống và Hạnh Phúc” cho mỗi đời người.
Như vậy, sự sống con người sẽ trở nên tốt hơn, thiện hơn và hạnh phúc hơn, là
không phải nhờ roi vọt, không phải nhờ sự hành hạ thân xác, không phải nhờ luật
xử tử người khắc khe hơn, cũng không phải nhờ sự áp đảo của số đông người hơn,
v.v...; mà chủ yếu là nhờ chất lượng nội dung tranh luận về ý nghĩa mục đích sự
sống của mỗi người với mọi người sẽ xảy ra như thế nào.
Vì sao đã từ lâu đến ngày nay, loài người đã tranh luận rất nhiều về ý nghĩa mục
đích sự sống nhưng vẫn chưa đạt đến kết quả như ý?
Vì như đã chứng minh trong các phần trước, trong một cộng đồng xã hội mà còn để
xảy ra một sự đói khổ, thì mọi Hạnh Phúc của con người sẽ vẫn còn trong sự đe
dọa. Hay nếu xã hội còn một người phải chịu sự bất công, thì mọi người khác sẽ
phải là nguyên nhân: con người bị bất công trong điều kiện mất khả năng sinh tồn
cơ bản, thì qui luật tiến hóa sẽ làm xuất hiện trong môi trường xã hội hai
nguồn lực thiện và ác đối nghịch nhau, gây chia rẽ và mất mát lớn lao cho sự
sống con người và xã hội nói chung.
Do đó, điều kiện phải đạt tối thiểu trong tranh luận là: sao cho mọi người đều
phải có cơm ăn, áo mặc, nhà ở và các điều kiện sinh tồn cơ bản khác; sao cho
mọi con người đang sống đều phải cảm giác được, là họ đang được sống trong một
môi trường tự do, bình đẳng và Hạnh Phúc. Hay chúng ta cũng gọi đó là những
điều kiện tiền đề để hình thành các (hp) trong mỗi con người hay cho mỗi xã
hội.
Thực tế, con người cũng đã ít nhiều lý giải các quan hệ sự sống theo các nội
dung trên. Tuy nhiên, do chưa nghiên cứu được sự tồn tại của A, nên con người,
trong quá trình thực hiện các nội dung lý giải trên, đã vấp phải hai “trở ngại”
không thể vượt qua sau đây:
Một là, do bản tính của con người là muốn đạt kết quả hưởng lợi nhiều nhất với
công sức phải bỏ ra ít nhất, trong một thời gian ngắn nhất; nên khi con người ý
thức ra điều kiện sống cơ bản “không bao giờ mất”, thì dễ sinh ra hiện tượng
biến nhát, chây lười, thiếu tích cực trong vai trò trách nhiệm được giao. Điều
đó sẽ dẫn đế, sức sản xuất của xã hội yếu dần, đời sống con người trở nên thấp
kém và có nguy cơ bị tiêu diệt. Hậu quả tất yếu phải đến: con người sinh nổi
loạn để muốn tái lập lại mức sống đã mất!
Hai là, để đạt mục đích nào, con người cũng đều cần phải có phương tiện. Do
lịch sử phát triển các quan hệ con người là sự tranh giành quyền lợi bằng
phương tiện bạo lực, hay bằng sự hơn thua của các sức mạnh nhân tạo này đối với
các sức mạnh nhân tạo khác, nên đã tình cờ tạo cho con người một thói quen in
sâu vào vô thức: “hãy dùng ”uy quyền áp đặt" để làm căn bản cho mọi quan
hệ con người với nhau!".
Vì thế, khi con người dùng phương tiện áp đặt bằng bạo lực để đạt mục tiêu vì
“hạnh phúc của mọi người”, thì khác gì: “một đàng mở cửa cho ngựa lao tới,
nhưng phía sau lại dùng dây xích cột ngựa vào cây cổ thụ kéo lại...!”. Trong
khi, bản chất thật của con người là phải được bắt đầu từ lẽ phải TỰ GIÁC thông
qua GIÁC NGỘ mà phát triển, chứ hoàn toàn không thể từ lẽ phải ÁP ĐẶT thông qua
BẠO LỰC mà tìm được chân lý.
Do quen dùng bằng phương tiện “lẽ phải áp đặt” (khp), nên con người tất sẽ phải
bị bế tắc trong lý giải thực tế về sự sống. Nó có thể biểu hiện trôi chảy về lý
(nhất thời), nhưng với thời gian mức sống sẽ như đang bị chậm lại và làm cho
con người dễ trở nên chán chường, mất niềm tin! - Mọi sự chậm lại đều có ý
nghĩa như đang đi lùi. - Vì vậy đến một lúc, con người cũng sẽ sinh nổi loạn để
đi tìm sức phát triển mới nhằm bắt kịp đoạn đường đã bị chậm trễ!
Như trên chúng ta đã thấy rằng tranh luận là rất có ích. Nhưng nếu không hội đủ
điều kiện để tranh luận, thì kết quả cũng sẽ lại thất thường với các thất bại.
Để tranh luận thành công, con người cần chú ý đến Ý Nghĩa, Phương Tiện và Mục Đích
của nội dung tranh luận đó. Ý Nghĩa có thành công hay không là nhờ vào Phương
Tiện, Phương Tiện có thành công hay không là nhờ vào Ý Nghĩa. Cả hai thành công
hay không là nhờ vào Mục Đích, và Mục Đích thì cũng nhờ ngược lại hai yếu tố
trên để đạt kết quả.
Cả ba đều nhờ vào ngôn ngữ A để phát triển, hay ngôn ngữ A nhờ vào cả ba yếu tố
trên để phát huy vai trò tồn tại của mình. Dùng ngôn ngữ A để khắc phục hai
“trở ngại” trên, chúng ta nhận thấy:
- Ý Nghĩa, phải là quyền lợi của một người trong hòa hợp với quyền lợi của mọi
người. Mục Đích của quyền lợi đỉnh cao cuối cùng là Tinh Thần, nhưng không phải
vì thế mà quên vai trò nấc thang của Vật Chất. Để đạt đến đỉnh cao của giá trị
hạnh phúc Tinh Thần, con người phải dùng đến Phương Tiện NHẬN THỨC, để giác ngộ
tính tự giác trong trách nhiệm quan hệ con người với nhau.
Có nhận thức, có Hành Động tự giác và có được mục đích đúng, thì sẽ có được mọi
thành công trong cuộc sống. Tuy nhiên, do bản chất của tâm A là Thói Quen và Thời
Gian, cho nên con đường thành công của ngôn ngữ A cũng phải là con đường của
Thói Quen và Thời Gian.
Tuy nhiên, thời gian phải đồng nghĩa với PHÁT TRIỂN, thì thời gian sẽ được cụ
thể hóa thành không gian. Thói quen con người là sống theo không gian, sống
theo môi trường trực tiếp vật chất cụ thể, nên sẽ không cảm thấy chán và mất
niềm tin khi phải chờ đợi thời gian để đạt đến mục đích cuối cùng của lý tưởng
sống đời người.
Chúng ta gọi các nội dung trên đây là lời giải theo Lẽ Phải Tự Giác (hp) của
ngôn ngữ A, hay theo Lẽ Phải Hạnh Phúc (hp) của môi trường Đạo Đức Hạnh Phúc V.
Còn mọi lời giải theo các lẽ phải khác trên, đều được gọi là các lời giải của
Ngôn Ngữ B, chúng luôn mang tính (khp) thuộc các Lẽ Phải Áp Đặt.
Tóm lại, sự tranh luận ý nghĩa mục đích sự sống bằng ngôn ngữ B sẽ dễ dẫn đến
hậu quả: mâu thuẫn, chia rẽ, nổi loạn và không có Hạnh Phúc. Cùng nội dung tranh
luận đó, nhưng bằng ngôn ngữ A, thì con người càng trở nên đoàn kết, phát triển
trong bình yên và Hạnh Phúc.
Tranh luận bằng ngôn ngữ B làm cho con người khó có thể cảm nhận ra bản chất
thật của sự sống Hạnh Phúc đời người là gì. Do đó, một là con người sẽ không
thể duy trì lâu dài một hệ tranh luận thống nhất và bình đẳng được, và hai là
phải dùng hệ thống biện pháp tranh luận giới hạn có áp đặt các nội dung bắt
buộc nhất định, v.v... dưới một sức ép bạo lực nhất định.
Biện pháp trên thường dẫn đến hậu quả: con người “bằng mặt chứ không phải bằng
lòng”. Tuy con người phải bằng lòng ngoài mặt, vì về lý không còn cách nào
khác, nhưng bên trong lòng cái tình vẫn chưa thông. Người đoản cho như thế là
hay, là mừng; người có đầu óc tinh thông sẽ hiểu ngay sự thể như trên là chưa
ổn.
Cái bằng mặt sẽ trở thành Dư Luận Công Khai, còn cái lòng người thì chạy về hướng
Dư Luận Ngầm. Trong quan hệ xã giao hay trong công việc, thì con người thường
ứng xử theo Dư Luận Công Khai, nhưng trong thâm tâm thì có thể ngả theo Dư Luận
Ngầm để chuẩn bị giải quyết vấn đề theo hướng khác.
Dư Luận Ngầm được hình thành một cách ngẫu nhiên và tự nhiện nhằm chống lại
hoặc bổ sung cho Dư Luận Công Khai, khi nó chưa thể trùng với Dư Luận Ngầm. Đến
một lúc, nếu con người vẫn tiếp tục không làm chủ được Dư Luận Ngầm, thì nó sẽ
biến thành sức tàn phá công khai đối với Dư Luận Công Khai.
Do đó, sự tranh luận tốt không phải là sự im lặng của biến êm, hay là sự tránh
né giỏi trước các bản chất thật của vấn đề; mà phải là đủ khả năng khơi dậy và
lý giải đúng bản chất thật của mọi luồng Dư Luận Ngầm, thì mọi vấn đề mới thật
sự trở nên “ăn chắc, mặc bền” vậy!
Một xã hội không phải chỉ có ông to bà lớn, không phải chỉ có toàn người tốt,
mà còn có vô số dạng người khác nhau để tạo nên một xã hội. Vậy, nơi nào có con
người, thì nơi đó có nguy cơ hình thành Dư Luận Ngầm trong môi trường của ngôn
ngữ B.
Khắc phục Dư Luận Ngầm, rõ ràng không phải chỉ biết hướng sự tranh luận đến
những “người ưu việt” không mà bỏ qua những “người kém ưu việt” còn lại trong
xã hội. Thường trong môi trường ngôn ngữ B, những “người ưu việt” dễ ngộ nhận
rằng: “đã là ưu việt, thì đương nhiên mọi người kém ưu việt khác phải biết dõi
mắt hướng về những ”ưu việt" trên, mà tự giác điều chỉnh lại nếp sống của mình
sao cho chúng được giống như thế, v.v...".
Như đã chứng minh ở chương trước, con người chỉ có thể đồng ý với nhau, học của
nhau về Lý Lẽ Chung. Nhưng về Lý Lẽ Riêng, tạo hóa cho mỗi người chỉ có một,
không ai giống ai, không ai bắt chước được của ai, và cũng không ai có thể áp đặt
lên ai để đạt đến một sự thành công tuyệt đối bao giờ.
Nó đã thuộc về “lý lẽ của tạo hóa”, nếu con người muốn dùng “lý lẽ nhân tạo” để
truất bỏ nó, thì chỉ tốn công sức mà còn phải gánh lấy hậu quả... đáng trách!
Như vậy, cái đúng của ngôn ngữ A là biết tôn trọng các Lý Lẽ Riêng của mỗi
người và tạo điều kiện cho chúng được hòa nhập với các Lý Lẽ Chung, thì sự
tranh luận nào cũng sẽ là tiền đề để làm biến mất mọi luồng Dư Luận Ngầm. Hay
Dư Luận Ngầm đã làm tan mất sự chủ quan của Dư Luận Công Khai áp đặt.
Trong ngôn ngữ B, con người hay dễ lẫn lộn cái gì đã thành công ở Lý Lẽ Chung,
thì tất yếu cũng phải thành công ở Lý Lẽ Riêng. Tức là Lý Lẽ Riêng chỉ là
phương tiện để cho Lý Lẽ Chung đạt thành công, và để sau đó làm cơ sở áp đặt
ngược trở lại cho Lý Lẽ Riêng.
Sự thật không đúng như vậy. Lý Lẽ Chung chỉ là phương tiện của Lý Lẽ Riêng. Con
người sẵn sàng hi sinh Lý Lẽ Riêng để giành thành công cho Lý Lẽ Chung, không
phải để rồi suốt đời mãi mãi lấy Lý Lẽ Chung làm thế chỗ cho Lý Lẽ Riêng khi
điều kiện sống bình thường tự nhiên đã tái lập.
Sự ngộ nhận tai hại đó sẽ bộc phát thành hậu quả, khi mà các vấn đề của Lý Lẽ
Chung đã được giải quyết ổn thỏa. Bởi có những hoàn cảnh đặc biệt, Lý Lẽ Riêng
trùng nội dung chính với Lý Lẽ Chung, nên con người sẵn sàng hi sinh Lý Lẽ
Riêng vì lợi ích của cả hai lý lẽ. Khi bản chất của Lý Lẽ Chung đã được giải
quyết, thì mỗi con người cần phải được quay về với các Lý Lẽ Riêng của mình để
được sống và Hạnh Phúc. Nếu con người lầm lẫn, vẫn lấy Lý Lẽ Chung làm điểm tựa
cho cuộc sống, thì khái niệm “cá nhân” trở nên vô nghĩa, và như thế khái niệm
“con người” cũng không còn (!?). Điều đó là một sự ngộ nhận phi lý; bởi ngày
nay, loài người vẫn còn đang tồn tại trên cái thế giới này, và mọi cá nhân đều
vẫn mong muốn tìm thấy được Hạnh Phúc, từ trong các hoài bão theo cách riêng tư
của mỗi người.
Do bản chất con người cũng là một sản phẩm của tạo hóa, nên một khi con người
vô tình bắt nó chấp nhận những điều vô lý, thì nó sẽ chống lại một cách hiển
nhiên, không khoan nhượng. Như thế, tốt nhất mỗi người trước hết nên biết tôn
trọng nhu cầu Hạnh Phúc của chính mình, cũng có nghĩa phải như thế mới hiểu và
biết cách tôn trọng Hạnh Phúc của riêng người khác vậy.
Mọi người đều biết tôn trọng Hạnh Phúc của nhau thì vị chi, một khái niệm Lý Lẽ
Chung mới được xây dựng và được bảo vệ vững chắc hơn bất kỳ một lý tưởng triết
lý cao xa nào.
5. NHỮNG HÌNH THỨC VÀ NỘI DUNG TRANH LUẬN
Tạo hóa vận động theo một qui luật thống nhất. Tổng nhận thức của nhân loại
cũng vận động theo một qui luật thống nhất. Mọi khái niệm “Hạnh Phúc” cũng được
con người hướng về theo một qui luật thống nhất. Và mọi động thái sinh tồn của
con người đều có mối liên quan thống nhất với nhau, để cùng tiến về một mục
đích duy nhất: “SỰ SỐNG VÀ HẠNH PHÚC cho con người”.
Ngày nay, nơi nào con người có sự liên lạc với thế giới văn minh, thì nơi đó sẽ
có ý thức đi tìm “sự sống và Hạnh Phúc”. Nếu đã có ý thức đi tìm “sự sống và
hạnh phúc”, thì nơi đó ắt sẽ có nhu cầu tranh luận về ý nghĩa và giá trị của
các nhận thức đó.
Như vậy, mọi con người sinh ra có liên hệ với thế giới văn minh ngày nay, đều
có quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ phải tranh luận về hai khái niệm trên.
Tuy xét về nguyên tắc, đó là trách nhiệm và nghĩa vụ; nhưng xét trên thực tế,
thì nên xem đó như là một vấn đề “thuộc quyền lợi cá nhân”, để cho mọi sự tham
gia tranh luận của con người đều đạt được trên tinh thần tự nguyện, tự giác cao.
Chỉ như thế chất lượng tranh luận mới có thể đạt đến thành quả cao nhất như
mong muốn.
Những nội dung trên nhằm chứng minh một điều: “mọi con người đang sống, đang
tồn tại, đều có ít nhiều gây ảnh hưởng đến người khác”. Vì vậy, mọi người, dù
lớn hay nhỏ, dù già hay trẻ, dù đang đóng vai trò gì trong xã hội, đều không
thể thoái thác vai trò của mình đối với cộng đồng nói chung. Hay ngược lại,
cộng đồng cũng không có quyền từ chối hay phủ nhận, sự liên đới tồn tại của bất
kỳ một cá nhân nào đối với sự phát triển chung của cộng đồng (từ phạm vi nhỏ
đến tổng thể chung nhất).
Thông thường, trong xã hội ngày nay, con người cho rằng sự quan hệ giữa một cá
nhân với xã hội, với mọi người, chủ yếu qua công ăn việc làm là chính yếu.
Người ta quen gọi đó như là sự đóng góp của một cá nhân đối với VIỆC CHUNG, còn
VIỆC RIÊNG cá nhân hay gia đình thì thường phải nằm ngoài việc chung kia.
Sự thật không đúng như vậy. Cách phân chia trên thuộc về cách hiểu của ngôn ngữ
B. Cách hiểu của ngôn ngữ A phải là: mọi hoạt động sinh tồn của một cá nhân,
trong một ngày hay trong suốt cả một đời người, thường hướng về một mục đích
nhất định; mục đích đó bao giờ cũng phải mang một ý nghĩa nhất định về mối liên
hệ giữa cá nhân đó đối với cộng đồng xã hội. Nó có thể mang ý nghĩa của (hp)
hay là (khp).
Do đó, sự quan hệ giữa một cá nhân với xã hội không phải chỉ qua công ăn việc
làm không thôi, mà phải là toàn bộ tất cả những hoạt động để tồn tại của mỗi
người trong suốt cuộc đời. Hay tất cả chúng cũng là VIỆC CHUNG vậy.
Hay sự “riêng” hoặc “chung” của vấn đề chỉ mang tính tương đối; nó sẽ tùy vào
yêu cầu của tùy vấn đề mà con người sẽ có thể đưa nó ra thành “chung” để dễ
phân giải cho hợp lý hơn.
Từ trên suy ra, số nội dung cần tranh luận về quan hệ sự sống giữa mọi người
với nhau là vô hạn. Bất cứ lúc nào, bất kỳ nơi đâu, bất kỳ chuyện gì, v.v...
đều có thể trở thành đề tài tranh luận chung giữa con người với nhau. Và sự
thật, trong thực tế từ ngàn năm đến nay, con người cũng đã từng tranh luận dài
dài như thế. Chỉ khác là, trước đây tranh luận tự phát, thiếu tổ chức, thiếu
một ngôn ngữ thống nhất để mọi người có cùng quan điểm chứng minh về thế nào là
sai hay đúng, ác hay thiện, v.v..., nên dễ sinh ra các mâu thuẫn phi lý, để rồi
“việc ai nấy gánh, khó ai nấy chịu!”.
Nay trong môi trường ngôn ngữ A, thì mọi sự tranh luận được đề nghị đưa vào qui
cũ, có tổ chức, có nghiên cứu chứng minh khoa học, để kết quả đạt được sẽ có
nhiều khả năng thành công hơn so với trước đây.
Sự tranh luận trong môi trường ngôn ngữ A sẽ được thuận lợi hơn nhiều so với
cách tranh luận trong môi trường ngôn ngữ B, vì nó trả lại sự sống công bằng
cho mọi con người trong xã hội. Giờ đây, không phải chỉ có người chủ, người có
quyền thế, người bề trên (như ông, bà, cha, mẹ, v.v...), hay người cậy thế cùng
đinh, người hay nói phăng ngang bửa củi, v.v... mà mọi người đều có quyền đối
lý lại mỗi khi thấy cần làm sáng tỏ một sự phi lý nào đó.
Khi đó cái đúng, cái sai, không còn quen ngả mãi về một phía nào, mà nó phải
dựa trên một chuẩn mực HỢP LÝ chung để phân giải công bằng cho mọi vấn đề.
Người xưa hay nói: “Quân xử thần tử thần bất tử bất trung, phụ xử tử vong tử
bất vong bất hiếu!”, đó là kiểu cách tranh luận một chiều mà môi trường ngôn
ngữ B thường gây ra để luôn tạo lợi thế về cho một phía.
Cách quen nhìn của ngôn ngữ B là: con người hay xã hội như là một thứ sở hữu
của riêng một quyền uy nào đó, mang tính con người hay mang tính của một lý lẽ
nhân tạo nào đó, để cuối cùng con người lạm dụng sự nhân danh quyền uy đó, gây
ra những sai lầm chủ quan rất khó phân định!
Cách nhìn của ngôn ngữ A là: mọi người phải được tạo đầy đủ khả năng tự vệ
trước mọi kết luận hay quyết định vô lý, có nguy cơ gây hại đến quyền lợi của
cá nhân hay đến quyền lợi chung, bằng sự đòi hỏi phải được minh chứng thông qua
tranh luận với hình thức thích hợp. Để sao cho, mọi cái đúng, mọi quyền lợi đều
phải được trở thành rõ ràng và hợp lý, trước mọi sự thắc mắc và nghi ngờ của cá
nhân hay của mọi người.
Và đó phải chăng là con đường duy nhất để con người thoát ra khỏi vĩnh viễn
ngôn ngữ B; đó là kiểu ngôn ngữ không chỉ gây hậu quả cho nạn nhân không thôi,
mà cho cả chính những người trực tiếp hay gián tiếp gây ra các hậu quả đó? Hay
tất cả mọi người sống trong môi trường ngôn ngữ B đều bị ít nhiều gánh lấy
những hậu quả không hay đó? Nó không phải do thiên tai, dịch bệnh, v.v... gây
ra, mà là do cách quan hệ sai lầm giữa con người với nhau gây ra.
Nếu xét về số lượng nội dung cần tranh luận trong mỗi đời người, về các vấn đề quan
hệ giữa con người với nhau, thì sẽ nhiều đến vô kể. Vậy tổng số lượng nội dung
cần tranh luận về các vấn đề quan hệ con người với nhau trong một xã hội, trong
một quốc gia hay trong cả loài người, thì ắt phải là một số lượng lớn vô hạn.
Do đó, cách để tìm kết quả tranh luận được nhanh nhất, là mọi người cần được
trau dồi khả năng để có thể tự tranh luận hiệu quả với chính mình. Chỉ đến khi,
mỗi người gặp sự khó giải thì mới cần đến sự giúp sức tranh luận của những
người khác hay của những nhà chuyên môn. Và đến khi đó, bắt buộc các nhà chuyên
môn hay trên phạm vi toàn xã hội, phải có trách nhiệm tìm ra lời giải công khai
tức thời, vô điều kiện cho các vấn đề đã được đặt ra. Đó là trách nhiệm, quyền
lợi và nghĩa vụ của mọi người đối với mỗi người. Nếu mọi người không làm tốt
phần việc cơ bản đó đối với mỗi người, thì phần việc của mỗi người đối với mọi
người ắt sẽ khó được chu toàn vậy.
Và tất yếu không có bất kỳ lời giải nào là đúng cuối cùng, mà chỉ có cái đúng tương
đối, tạm chấp nhận theo qui ước để chờ thời gian và thực tế kiểm chứng. Hoặc
chỉ có sự thống nhất của tất cả mọi người, chứ không chỉ của đa số người, thì
mới là một giá trị chân lý đúng tuyệt đối, cho thời điểm xảy ra sự thống nhất
về lời giải đó của tất cả mọi người.
Theo như cách chia âm dương: nếu gọi Mục Đích là Vật Chất thì Ý Nghĩa và Phương
Tiện là thuộc về Tinh Thần; mà Tinh Thần thuộc về phạm trù Hạnh Phúc, mục đích
cuối cùng của đời người, hay là cũng thuộc về đặc tính ưu việt của bản chất con
người; nên, nếu con người lý giải thành công Ý Nghĩa và Phương Tiện để đạt đến
Mục Đích của cuộc sống, thì cũng đồng nghĩa với sự đem lại cho họ một phần giá
trị Hạnh Phúc mang tính BẢN CHẤT và PHÁT TRIỂN, hay cũng có nghĩa đem lại cho
họ một giá trị hạnh phúc tinh thần vô giá vậy. Hay nói cách khác, đó cũng là
BÀI TOÁN VỀ CÁCH SỐNG mà loài người đang theo đuổi từ lâu nay.
Như vậy chân lý sống hạnh phúc vừa cao quý vừa bình dân cho mọi người đang tồn
tại không đâu xa, nó đang tồn tại trước mắt, xung quanh và bên trong mỗi con người.
Dù người giàu có đến đâu hay nghèo rớt mùng tơi thế nào, cũng đều có thể tìm
đến chân lý đó như nhau, hay cũng đều có khả năng đạt đến Hạnh Phúc cơ bản của
đời người gần như nhau. Và đó như là cái nền cơ bản để có thể biến ước vọng
sống bình đẳng và Hạnh Phúc giữa mọi người với nhau trở thành hiện thực!
Để có được hạnh phúc tinh thần không khó; mọi con người muốn sống một cuộc đời
Hạnh Phúc và tốt đẹp, đều có thể dễ dàng tìm thấy nó trong môi trường sống của
ngôn ngữ A. Đó là môi trường sống mà trong đó mọi người làm chủ được ý nghĩa và
giá trị thời gian tồn tại của đời mình, thông qua sự ý thức chủ động xây dựng
cách sống của bản thân họ.
Đời người được bắt đầu và chấm dứt sau một số lượng năm, tháng cố định. Mỗi đơn
vị thời gian của đời người được tính bằng giây, phút, giờ, ngày, tuần, v.v...
Trong mỗi một đơn vị thời gian đó, mỗi con người đang sống đều phải bỏ ra một
lượng ca lo nhất định để duy trì một vận động sinh tồn nhất định.
Trong sự vận động sinh tồn đó, không bao giờ thiếu sự vận động Tinh Thần của
mỗi con người. Và mọi sự vận động Tinh Thần đó bao gồm những nội dung ra sao,
thường con người khó có khả năng làm chủ hết được chúng, nên sự hưởng thụ tinh
thần cũng rất khó thực hiện được trong môi trường B.
Vì vậy, trong môi trường của ngôn ngữ B, thông thường con người đã dùng phần
lớn thời gian và sức lực của mình để nhằm đạt đến một sự hưởng thụ về vật chất
đến vô hạn; bên cạnh đó cũng có sự cố gắng phát triển về mặt tinh thần nhưng
thường mang nặng tính hình thức, mơ hồ, tự phát và thiếu một cơ sở minh chứng khoa
học làm hậu thuẫn.
Hoặc có một số người khác dành sự vận động Tinh Thần để đi tìm sự hưởng thụ về
ý nghĩa cuộc sống bằng các phương pháp rèn luyện như Yoga, bằng các triết lý
siêu hình, bằng các sáng tạo về giá trị tinh thần theo nhiều khuynh hướng nghệ
thuật đa dạng khác nhau, v.v...
Riêng ngôn ngữ A, dành sự vận động Tinh Thần cho Ý NGHĨA VẬN ĐỘNG sao cho, sự
hoạt động của một người trong mọi đơn vị thời gian đều nhằm đạt đến mục đích:
“xây dựng một cuộc sống hạnh phúc tốt đẹp nhất cho mình và cho mọi người khác,
trên cả hai mức sống Vật Chất và Tinh Thần”.
Để đạt đến điều đó, mỗi người phải dành một lượng thời gian nhất định trong đời
để rèn luyện khả năng nhận thức, sao cho có thể biết được bằng cách nào hay con
đường nào để có thể đạt đến mục đích trên một cách khoa học nhất và hiệu quả
nhất.
Mọi đứa trẻ lớn lên đều có khả năng có ý thức về những đòi hỏi được hưởng thụ
cho bản thân mình. Đó cũng là lúc mỗi con người đang ngẫu nhiên tự rèn luyện
“khả năng Tinh Thần” của mình một cách vô ý thức, tự phát và theo khuynh hướng
nội dung: đề cao quyền lợi ích kỷ cá nhân, độc đoán, v.v... và phản Tinh Thần.
Nếu chúng ta gọi ngôn ngữ A là của “Ý Thức”, thì ngôn ngữ B là của “Tự Phát”.
Như vậy, khi con người không được định hướng rèn luyện kịp thời từ sớm theo
ngôn ngữ A “Ý Thức”, thì đứa trẻ sẽ phải đi theo sự phát triển của ngôn ngữ B
“Tự Phát” mang tính bất ổn cho sự sống con người và xã hội.
Tuy nhiên do ngôn ngữ A được hình thành sau khi đã có ngôn ngữ B, nên có thể
xét từ góc độ tiến hóa, thì ngôn ngữ B cũng là một ngôn ngữ hợp lý trong giai
đoạn đầu của sự tiến hóa về ngôn ngữ của con người.
Như vậy, sự chuyển đổi từ B qua A cũng là một sự chuyển đổi bình thường có tính
tự nhiên theo quan điểm của ngôn ngữ A.
Vấn đề có nghĩa là, khi trong sự sống, con người còn thấy xuất hiện một quan hệ
không vừa ý và muốn tìm cách lý giải nó ra sao cho được tốt đẹp, thì con người
có thể đi tìm sự lý giải bằng nhiều cách; trong đó, ngày nay, sẽ có thêm cách
giải của ngôn ngữ A ngoài các cách đã có của ngôn ngữ B.
Bản chất con người là thích tò mò, tìm hiểu về cái lạ, cái mới, cái có khả năng
đúng hơn. Vì vậy, đến một ngày kia sẽ có người tìm đến xem thử cách giải của
ngôn ngữ A. Sau đó, nếu kết quả lý giải của ngôn ngữ A đạt được kết quả tốt, có
thể đem đến sự sống tốt hơn cho con người, thì cũng là lúc sự đổi chỗ từ ngôn
ngữ B qua A đang được bắt đầu.
Nếu đúng được người này, thì người khác lần lượt cũng sẽ có thể tìm thấy được
sự lý giải đúng của ngôn ngữ A. Và như thế ngôn ngữ A chỉ thật đúng khi mọi
người đều cùng đồng ý về sự tồn tại của vai trò trung tâm của nó, cho dù sự
sống vẫn còn đang trong đa “ngôn ngữ”.
Đợi khi thất bại mới lý giải, thì như thế con người đã phần nào chịu sự mất mát
về tinh thần. Do đó, con người sẽ nghĩ đến chuyện phải chăm lo rèn luyện tinh thần
của mình từ sớm, để mong sao có thể tránh được những hậu quả đáng tiếc về sau.
Vậy là khi nhận thức càng được sớm rèn luyện, thì con người càng dễ làm chủ về
cách sống, từ giai đoạn chủ quan sang giai đoạn khách quan khoa học.
Mỗi một khó khăn về quan hệ được lý giải, là một giá trị Tinh Thần được xây
dựng. Mỗi một người biết cách sống theo ngôn ngữ A, thì một sự bình yên cho một
người hay cho một tỉ lệ bình yên của xã hội được xây dựng. Nhiều giá trị Tinh
Thần hay nhiều người phát triển theo ngôn ngữ A được xây dựng, thì phải chăng
sẽ tạo thành một môi trường ngôn ngữ A trong thực tế. Hay nói cách khác, một
môi trường chất lượng sống hạnh phúc toàn diện kiểu mới, được hình thành lần
đầu trong đời sống thực tế xã hội hiện đại. Hay đó cũng là sự hình thành của
Môi Trường Hạnh Phúc V vậy.
Kết quả lý luận trên được rút ra từ sự lý giải hai vấn đề: sự lý giải mâu thuẫn
của các quan hệ trong môi trường ngôn ngữ B bằng ngôn ngữ A và sự rèn luyện
cách sống theo ngôn ngữ A của chính tác giả.
6. BỆNH GHIỀN CÁCH SỐNG CỦA NGÔN NGỮ B
Trong môi trường ngôn ngữ B, mô hình cách sống phổ biến của con người là sự
chạy đua tranh giành quyền được hưởng thụ vật chất nhiều nhất. Như vậy con người
đã chọn quan hệ vật chất làm mục đích sự sống, và biến quan hệ con người với
nhau trở thành phương tiện cho mục đích ấy.
Vì là phương tiện, nên quan hệ con người có thể bỏ hay có thể xấu đi, nhưng mục
đích vật chất thì bù lại phải nhất định đạt đến sự thành công.
Do sự sống ngẫu nhiên đã tạo cho con người những nhận thức như trên, nên cũng
đã vô tình biến nó thành thói quen, ăn sâu vào kí ức sinh tồn của bao thế hệ con
người đã đi qua; mà cho đến thời đại ngày nay, nó đã trở thành như một thứ bệnh
GHIỀN trong cách sống của không ít con người.
Đó là cách sống, mà trong đó con người như luôn phải làm xấu đi các quan hệ
giữa con người với nhau, bằng những cuộc tranh giành về quyền lợi vật chất, v.v...;
xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau vì lợi ích cá nhân, tập thể, xã hội,
v.v... trên cơ sở một lý lẽ nào đó.
Sự tranh giành đó sẽ thành phức tạp tùy theo quyền lợi của mỗi bên được tạo ra
và được bảo vệ để phát triển lên như thế nào. Do ai cũng muốn mình được nhiều
nhất trong chiến thắng, nên sự tranh giành nhau về quyền lợi thường cuối cùng xảy
ra rất căng thẳng. Các bên đều cố gắng tìm cách vận dụng hết tất cả mọi năng
lực sẵn có, để quyết giành phần thắng lớn nhất về mình.
Mở đầu cho các biểu hiện tranh giành trên là hiện tượng quan hệ bằng “luật rừng”
giữa con người với nhau. Sau những giết chóc, bắt bớ bừa bãi, loài người mới có
ý thức hợp lại cùng thỏa thuận với nhau sống cho có trật tự luật pháp, để sự
sống được ổn định, hợp lý và văn minh hơn.
Có thời luật pháp cho phép, khi hai người bất đồng quan điểm nhau về một sự phân
chia quyền lợi nào đó, thì họ có quyền tổ chức một cuộc đấu kiếm hay đấu súng
với nhau, để phân đúng sai qua sự kết liễu một mạng người. Ngày nay, con người
dùng tòa án để phán xử các quan hệ, khi sự mâu thuẫn đã đến một cao điểm nào
đó. Và hình phạt tù đày khổ sở từ ngắn hạn đến chung thân, hoặc hình phạt tử
hình cũng được con người thường dùng đến.
Nhìn về diễn biến lịch sử quan hệ con người với nhau, mọi người dễ dàng nhận thấy
sự cố gắng của loài người là muốn giảm dần những cuộc giết hại và bắt bớ gây
khổ đau cho nhau. Tuy nhiên đến thời đại ngày nay, các thành quả trên như vẫn
chưa làm vừa lòng những con người văn minh tiến bộ.
Điều đó cho thấy, vấn đề giải quyết các bất đồng giữa con người trong môi trường
ngôn ngữ B là việc làm vô cùng khó khăn, phức tạp và nan giải. Muốn thoát khỏi
bế tắc đó, cách đơn giản là hãy thoát khỏi cách sống của môi trường cũ và hãy
thử tìm đến cách sống của môi trường mới, môi trường của ngôn ngữ A!
Môi Trường sống của ngôn ngữ A là xem sự chạy đua tranh giành quyền lợi Vật
Chất, chỉ là một phương tiện để con người thi đua tiến đến khả năng được phát
triển và hưởng thụ về Tinh Thần. Do chọn Tinh Thần là đích cuối cùng, nên mọi
giá trị Vật Chất có thể bị hao đi nhất thời, nhưng trong quan hệ con người với
nhau thì nhất định phải gặt hái thành công.
Chỉ khi con người hiểu ra và công nhận giá trị Vật Chất là nhẹ hay phụ, còn giá
trị Tinh Thần (hay con người) mới là nặng, là chính; thì khi đó, việc phân xử
mâu thuẫn quyền lợi giữa con người với nhau mới trở thành đơn giản, hợp lý và
công bằng. Nếu không, vấn đề lúc nào cũng nặng nề, phức tạp và sẽ không dễ tìm
thấy lối thoát.
Do các mâu thuẫn về vật chất là cụ thể, nên thường còn dễ lý giải phân minh.
Nhưng khi các mâu thuẫn không phải là một giá trị vật chất cụ thể, mà là một
lời nói, một sự xúc phạm danh dự, một sự tranh giành phân định lý lẽ phải hay
trái về một phép tắc lễ nghi, phong tục tập quán, v.v...; thì sự lý giải càng
trở nên cực kỳ khó khăn hơn; vì nó rất trừu tượng, mơ hồ và nó cũng rất dễ liên
quan đến sự vận dụng của các uy quyền của bạo lực hay của số đông người để áp
đặt.
Tuy nhiên, nếu chúng là những mâu thuẫn của môi trường ngôn ngữ B, thì nhất
định chúng cũng sẽ có nguồn gốc mang tính xem nhẹ giá trị con người và đặt nặng
giá trị hình thức nhân tạo lên trên. Ví dụ, con người sẵn sàng cúng tế một con
người cho thần linh bằng sự thiêu đốt sống người đó, bất chấp người đó có đau
đớn, có buồn khổ hoặc có đồng ý hay không đồng ý về thói quen phong tục, tập
quán đó, v.v...
Ngày nay, tuy các vấn đề mâu thuẫn như trên được biến đổi văn minh hơn, nhưng
thực chất cũng là sự chạy theo các thói quen hình thức nào đó mà bất chấp có sự
thiệt hại hay sự ưng thuận về tình và lý của nạn nhân hay không.
Do đó, vấn đề cơ bản đặt ra đầu tiên là phải chứng minh công khai, hành động
đốt sống một con người để tế lễ sẽ đem lại lợi ích cho nạn nhân và cho mọi
người ra sao? Hay tương tự, mọi Hành Động gây sự bất đồng ý cho người khác cũng
đều phải được chứng minh công khai trong một môi trường tổ chức hợp lý, như môi
trường A chẳng hạn.
Thông thường trong ngôn ngữ B, con người không thể minh giải tất cả mọi Hành
Động gây bất bình giữa con người với nhau, mà chỉ có thể thực hiện được một
phần. Phần các Hành Động còn lại, con người bắt buộc đối phương phải chấp nhận
theo nguyên tắc: ai đang có ưu thế hơn, thì người đó ắt sẽ có toàn quyền áp đặt
các quyết định cho người khác phải tuân theo vậy!
Đó là nguyên nhân chính đã làm cho các mâu thuẫn trong môi trường ngôn ngữ B
không sao, không phải lúc nào đều cũng có thể dùng lý lẽ để phân giải hiệu quả
và công bằng mọi vấn đề. Một sai lầm ban đầu không được lý giải cụ thể, thì sẽ
sinh ra và biến hóa thành vô số sai lầm khác; để rồi lại bắt mọi người đều phải
chấp nhận chúng trên cùng nguyên tắc: “cái chung đã vô lý, thì mọi cái riêng
cũng phải ít nhiều vô lý theo để mọi việc mới thông!”. Đó như là một hiển nhiên
và tất yếu, thường xảy ra trong môi trường của ngôn ngữ B hay của các “uy quyền
và bạo lực”!
Trong môi trường ngôn ngữ A, mọi nguyên nhân vô lý và bất công trên được qui
kết tất cả vào A. Hay cụ thể hơn, đó là thói quen về cách sống tại A của mỗi
con người sẽ là nguyên nhân chính cho mọi vấn đề. Vì thế cách lý giải đơn giản
cho các mâu thuẫn trên là: do mỗi người bận bảo vệ sự chiến thắng của thói quen
mình, nên không muốn thói quen của người khác được tôn trọng. Trong ngôn ngữ B,
con người thường tìm cách làm cho thông lý để mọi người tự nguyện chấp nhận sự
áp đặt giữa các thói quen nghịch nhau, như một chuyện bình thường phải chấp
nhận; còn vấn đề phải tìm nguyên nhân hợp lý tận cùng cho vấn đề, thì thường
chỉ được con người khuyến khích về mặt hình thức nhưng sẽ có thể là sự cản trở
trong thực hiện.
Trong môi trường ngôn ngữ A chứng minh: sự áp đặt của thói quen sống của số người
này lên thói quen sống của số người khác, là không hợp lý, là không đúng, là
không phải lời giải tốt nhất cho sự sống của con người.
Mà lối thoát chỉ có thể là: mọi người phải tôn trọng thói quen cách sống của
nhau, và hãy cùng nhau thỏa thuận hình thành ra một ranh giới sống chung hòa
bình và bình đẳng nào đó, nếu mỗi khi giữa chúng có một sự mâu thuẫn nhất định.
Do đó, vấn đề đi tìm nguyên nhân thói quen của ai, của bên nào, là tác nhân đầu
tiên gây cản trở thói quen sống của những người khác, sẽ là một vấn đề cần được
ưu tiên quan tâm. Thường con người hay vấp nhau về thói quen trong quan điểm
sống, tức là về nhân sinh quan và thế giới quan của mỗi người.
Nếu cuối cùng tìm ra nguyên nhân thói quen sống của ai đó là thủ phạm gây ra
đầu tiên sự mất đoàn kết giữa con người với nhau, thì người đó, hay những người
đó hay giới người đó, sẽ dễ bị va chạm rất lớn về lòng tự trọng hay sự tự ái
của họ, v.v... Sự va chạm đột ngột đó sẽ làm cho con người khó có thể chấp nhận
một sự thật sai lầm nào đó, mặc dù về lý họ đã có thể cảm nhận được phần nào
các lý do sai trái đang nằm về phía họ.
Sự bực tức đó bắt nguồn từ sự cố gắng giữ gìn sự sống trong sạch và tốt đẹp của
mỗi người từ lúc nhỏ; nhưng vì sao, từ lúc nào, cái sai lại giờ đây đang đè lên
vai họ. Thật ra, đó là một sự oan ức to lớn mà mỗi con người lớn lên trong môi trường
ngôn ngữ B dễ bị mắc phải. Vì nơi đó, trẻ em không được người lớn bảo đảm cụ
thể về sự hình thành quan điểm sống hay nhân cách sống của chúng sẽ phát triển
như thế nào sau này.
Vì vậy, một ngày kia đứa trẻ được làm người lớn, thì ngẫu nhiên sự thiếu chăm
sóc và chịu trách nhiệm của người lớn khi nào, nay đang được biến thành những
hậu quả trực tiếp và nặng nề lên trách nhiệm phải sống hoàn thiện của trẻ đó
trước các đòi hỏi của xã hội.
Đó cũng là một trở ngại làm cho không phải lúc nào mọi nguyên nhân cũng đều
phải được chỉ ra cụ thể, bởi cái cụ thể có khi có hại hơn là có lợi. Song, nếu
các nguyên nhân không được nêu rõ ra, thì con người sẽ không biết sai đâu để
sửa?
Tuy nhiên; một là, đa số nguyên nhân là dễ nêu ra; hai là, chỉ ra nguyên nhân
chung cũng có thể giúp được phần nào tránh được phải nêu trực tiếp cụ thể; ba
là, sự nhận thức của số đông sẽ giúp cho thiểu số có thể tự nhìn ra vấn đề. Do
đó, vấn đề gây va chạm có thể được hạn chế nhiều.
Vậy vấn đề là làm sao tìm ra được các nguyên nhân đầu tiên, gây ra những mâu
thuẫn hay các sai lầm trong các quan hệ giữa con người với nhau? Chúng ta biết rằng,
mọi con người đều có A. Nơi đó ghi đầy đủ bản chất sinh tồn của mỗi con người,
hay cũng là nơi để chúng ta tìm ra các nguyên nhân sai lầm đầu tiên trong mọi
quan hệ con người với nhau vậy.
Mỗi A ít nhiều biểu hiện ra bên ngoài thông qua các hình thức về các cách sống
của cá nhân đó. Nay nếu chúng được cộng thêm với một số thông tin cung cấp, thì
con người sẽ có thể dự đoán ra các lý do gây sai lầm trong quan hệ. Ví dụ: nhìn
sự việc và cách sống của những người liên quan, thì có thể suy ra được nguyên
nhân sai lầm của sự việc đó. Vấn đề đánh giá các quan hệ con người với nhau
cũng gần tương tự như vậy.
Việc còn lại là con người có thể nhận thức về A và biết cách đọc A như chúng ta
đã được giới thiệu ở các chương trước hay không; đó thật sự là một yếu tố then
chốt để tìm ra đáp án thành công cho bài tính trên.
7. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐỜI THƯỜNG
Trong môi trường ngôn ngữ B, con người chỉ quen tính về quyền lợi vật chất mà thiếu
cách tính cụ thể về quyền lợi Tinh Thần; nên không đủ cơ sở để lý giải các hiện
tượng về con người và xã hội một cách toàn diện và hiệu quả.
Trong môi trường ngôn ngữ A, con người phải biết tính về cả hai thứ tài sản mà
mỗi người đều có: tài sản Vật Chất và tài sản Tinh Thần. Trong đó, tài sản Tinh
Thần tuy vô hình nhưng lại quý giá hơn tài sản Vật Chất, nếu xét trong điều
kiện con người đã có được mức sống Vật Chất từ cơ bản trở lên.
Tài sản Vật Chất tuy rất hấp dẫn về hình thức, nhưng nó luôn hữu hạn và có thể
bị mất do nhiều lý do. Ngược lại tài sản Tinh Thần, nhìn có vẻ mơ hồ, nhưng nó
rất có lợi cho sự hưởng thụ ổn định về chiều sâu tâm hồn của con người. Bản
chất của nó là vô hạn và đặc biệt, nó được gìn giữ bên trong trí óc con người,
nên nó khó bị mất hơn tài sản Vật Chất.
Tài sản Vật Chất càng dùng thì càng bị hao dần; nhưng Tài Sản Tinh Thần càng
dùng thì càng được củng cố. Vậy nếu con người biết kết hợp xây dựng và phát
triển cùng lúc hai thứ tài sản trên, thì sự sống sẽ quân bình, ổn định và Hạnh
Phúc.
Trong môi trường B, thực tế đã cho thấy, con người có thể tranh giành tài sản
không phải chỉ có tài sản Vật Chất không mà tranh giành cả về tài sản Tinh
Thần.
Tranh giành tài sản Vật Chất bất hợp lý, thì sẽ bị luật pháp trừng trị. Nhưng nếu
tranh giành tài sản Tinh Thần bất hợp lý, thì ngày nay con người chưa biết kiện
nơi đâu để nhờ phân xử. Đó là một sự bất cộng vô hình, mà con người trong môi
trường ngôn ngữ B phải gánh chịu. Biết rằng khi một tài sản Tinh Thần bị lấy
mất bất hợp lý, tức là đã làm suy yếu nội tâm của con người, mà cụ thể là đã
làm (khp) của con người bị tăng lên.
Cuối cùng hậu quả dẫn đến: một ngày kia nội lực giảm, ý chí trở thành chán nản,
niềm tin tương lai bị cạn, sự sống suy yếu, tính thiện bị đe dọa thành ác dần,
v.v..., mà con người sẽ không hiểu tại sao. Tất cả có thể là từ những lý do rất
đơn giản và vô hình nhưng chúng chính là những nền tảng cơ bản nhất để phạm trù
con người có thể được phát triển một cách toàn diện nhất và ổn định nhất.
Khi chất lượng đời sống Tinh Thần đã giảm, nhưng nếu con người vẫn muốn cố đẩy
sự sống lên cao như ngày nào, thì con người sẽ phải gánh chịu cái giá về sự sút
giảm nhân cách con người. Tức là giờ đây tính thiện có thể phải biến dần sang
ác; anh hùng quân tử bị đổi dạng thành tiểu nhân, vô liêm sĩ; chân thật, trong
sáng đổi thành lừa dối, xảo quyệt; tình người được thay bằng toan tính thủ đoạn;
thái độ trách nhiệm, cần cù, ân cần, được đổi bằng vô trách nhiệm, cẩu thả,
lạnh lùng, xấc xược, quan liêu, vòi vĩnh, v.v...
Người xưa có câu: “Nhất nghệ tinh nhất thân vinh” hay “cái nết đánh chết cái
đẹp”. Câu đầu nói về tài sản Tinh Thần mang tính nghề nghiệp sản xuất vật chất
là chủ yếu. Câu sau nói về tài sản Tinh Thần mang tính quan hệ con người. Cả
hai câu đều đề cao giá trị Tinh Thần của con người.
Tuy nhiên, trong câu sau, cái nết thời trước có khi làm khổ con người hơn là đem
đến hạnh phúc cho con người. Cái nết là cái đức, là cái cần có cho cả nam lẫn
nữ. Cái đức trong ngôn ngữ A được phát triển lên thành “mức sống Tinh Thần”, là
tài sản cơ bản đầu tiên và cuối cùng định ra giá trị cao nhất chất lượng sống
của mỗi đời người. Tất cả đều có thể tạo được thông qua sự rèn luyện khả năng
nhận thức về các ý nghĩa Hành Động, trong quá trình theo đuổi các mục đích sống
của mỗi đời người.
Hàng ngày mỗi con người thực hiện bao nhiêu là công việc, mỗi công việc đều phải
mang một ý nghĩa nhất định đối với sự sống con người. Những ý nghĩa đó ra sao,
thì thường khi con người bận việc, không kịp hay không có thời gian suy nghĩ về
nó. Chính điều đó là nguyên nhân đã làm ăn mòn đời sống Tinh Thần của con người
dần dần lúc nào không hay!
Cũng có những lúc, tình cờ con người chợt nhìn lại tuổi đời, muốn có một định nghĩa
cho cái hậu mai sau, thì mới đâm lo và cảm thấy như bị mất điểm tựa. Trong tình
thế đó, có người mới nghĩ đến đi chùa, đi nhà thờ, v.v... như một sự trấn an
tâm hồn: “về thế nào là ý nghĩa một đời người?”
Cách giải quyết như thế, phần nhiều rơi vào các thiện nữ. Còn thiện nam thì cảm
thấy khó khăn hơn trong xây dựng niềm tin, nên dễ tìm đến với các cuộc vui
chơi, rượu thịt, hút nghiện, v.v... đến thâu đêm suốt sáng. Chúng không còn xảy
ra như để thụ hưởng đơn thuần, mà như để che lấp bớt đi khoảng trống bế tắc về
ý nghĩa sự sống của đời người là gì; mặc dù nhân loại vẫn không thiếu gì những
triết lý xa xôi với bao nhiêu lý tưởng cao đẹp, v.v...
Nguy hiểm hơn, con người muốn đánh đổi sự bế tắc đó bằng những toan tính phạm
tội mạo hiểm, đến mức có thể gây nên những hậu quả khôn lường. Hay nhẹ hơn, họ
dùng những khả năng sẵn có để muốn khuấy động đến quyền được sống bình yên của
những người khác, v.v..., như một sự mua vui trước các thất bại đang xảy ra
trong lòng họ vậy.
Những vấn đề trên cho thấy, khoa học đã thiếu sự định hướng cơ bản và toàn diện
cho sự sống con người thời đại. Ngày nay với những biến đổi nhanh chóng của
khoa học vật chất, nó đang ngày đêm gây ảnh hưởng và tác động trực tiếp đến đời
sống tâm lý và tinh thần của con người một cách phức tạp, không theo một định
hướng chủ động nào. Đó phải chăng là một sự đe dọa không nhỏ cho sự trưởng
thành nhân cách của con người?
Đứng trước hai thái cực thiện và ác có tính kế thừa ngẫu nhiên và phức tạp trong
cuộc sống, con người thời đại ngày nay đa số cho rằng: “cố gắng làm điều thiện
tránh làm điều ác thì ắt sẽ được thiện!”.
Sự thật, cách hiểu đơn giản như trên, ngày nay không còn có thể đạt hiệu quả
được nữa, vì sự sống con người thời đại đã vô cùng phức tạp. Giống như con người
ngày nay muốn xây nhà, muốn làm kinh tế, muốn bắt cầu qua sông, v.v..., đều
phải cần có học tập công phu thì mới đạt đến đỉnh cao. Cái thiện, sự sống và
Hạnh Phúc bây giờ cũng phải như thế: nếu không học, con người sẽ không thành
chánh thiện và ý nghĩa sự sống Hạnh Phúc đời người, cũng sẽ rất khó mà tìm thấy
được nội dung và ý nghĩa thật của nó là gì.
Từ (CT.9-2) và (CT.17), chúng ta có công thức:
CG' = HẠNH PHÚC + Lẽ Phải m + (hp / khp)
+ Hạnh Phúc
(CT.9-3)
Chú thích: hp / khp: hp hay khp, cảm xúc phát sinh từ vô
thức. HẠNH PHÚC: mục đích hạnh phúc lý tưởng mơ ước đời người.
Hạnh Phúc: ý nghĩa hạnh phúc toàn diện thực tế hằng ngày.
Lẽ Phải m: mục đích việc làm cụ thể trong mỗi thời gian trước mắt.
Thay vào (CT.8), chúng ta có công thức sống điều chỉnh (đảo mẫu và tử số) tổng
quát của mỗi đời người như sau:
NỘI
DUNG LẼ PHẢI Y
SỰ SỐNG Y =
CẢM
XÚC LẼ PHẢI CG'
(CT.8-1)
Chú thích: SỰ SỐNG Y: ý nghĩa đời người của một cá nhân
Y nào đó.
NỘI DUNG LẼ PHẢI Y: lý lẽ minh chứng mục
đích sống trong cả đời người của cá nhân
Y.
CẢM XÚC LẼ PHẢI CG': kết quả tổng kết về
cảm xúc sống trong đời người của cá nhân
Y.
Từ (CT.8-1), chúng ta thấy rằng: con người muốn đạt đến kết quả Hạnh Phúc trọn
đời, thì lý lẽ của mục đích sống trong đời (NỘI DUNG LẼ PHẢI Y) của cá nhân Y
sẽ phải tạo ra được cảm xúc sống CG' (CẢM XÚC LẼ PHẢI CG') theo tuổi đời. Trong
đó, tử số có thể biến hóa đa dạng, nhưng mẫu số phải cố định (+) để làm kim chỉ
nam cho cuộc sống.
Tại (CT.9-3), chúng ta thấy: muốn tạo được CG', cá nhân Y không những cần có ý
thức mục đích đời người là HẠNH PHÚC; mà trong các việc làm đời thường có mục đích
m (Lẽ Phải m) cũng cần phải có ý thức kèm theo ý nghĩ: “vì lợi ích Hạnh Phúc là
chính, còn m chỉ là phương tiện”. Và bấy nhiêu vẫn chưa đủ, cá nhân Y cuối cùng
phải tạo ra được sự cảm xúc Hạnh Phúc (hp) tự nhiên do tâm A phát sinh; hay nôm
na, trong lòng và trong tâm hồn của Y phải được cảm nhận các cảm xúc Hạnh Phúc
(hp) do vô thức A gởi đến.
Thông thường các yêu cầu chung trên, con người có thể không khó thực hiện thông
qua các cố gắng về nhận thức và Hành Động của mỗi người; nhưng trừ yếu tố cuối
cùng của cái tâm con người (hp hay khp), là con người khó có thể trực tiếp chủ
động hoàn thành được nó nhất.
Nếu tâm xấu thì phát sinh sự cắn rứt lương tâm, sự buồn bực, đau khổ, mất vui,
buồn chán, hung dữ, độc ác, vô lương tâm, v.v... và thành mất Hạnh Phúc. Khi đó
sẽ gây xuất hiện các (khp) tương ứng trong nội tâm mỗi người một cách tự động.
Vậy tức là SỰ SỐNG Y đã bị thất bại, vì CG' cho ra kết quả tiêu cực (–).
Nếu tâm tốt, thì nội tâm con người phát sinh những cảm xúc tốt đẹp, thuận lợi
cho sự hưởng thụ về ý nghĩa đời người; tương ứng khi đó là các (hp) xuất hiện
trong lòng mỗi người (+).
Ví dụ về việc cha mẹ nuôi con cái. Mọi người cùng có mục đích (m) là nuôi con.
Nhưng nếu cha mẹ nuôi con vì ý nghĩa vụ lợi cá nhân, vụ lợi cho cha mẹ là chính,
thì đó là hiện tượng trái tự nhiên, là vô đạo đức; nên tâm sẽ phát sinh (khp)
(–).
Trường hợp thứ hai, nuôi con vì ý nghĩa muốn cho con nên người và được sống đời
Hạnh Phúc: đó là cái (m) thuận lòng trời, phù hợp với đạo đức tự nhiên, nên tâm
người sẽ phát sinh (hp) một cách tự nhiên, (+).
Lấy một ví dụ khác: khi gặp người ăn xin hay gặp người hoạn nạn, người qua
đường có thể đến giúp họ. Hành động đó về hình thức là giúp đỡ, nhưng về ý
nghĩa thì có thể là do tâm thiện từ đáy lòng mà giúp đỡ hay do một mưu cầu lợi
ích riêng tư nào đó mà giúp. Ý nghĩa đầu sẽ làm xuất hiện (hp) trong lòng
người, ý nghĩa sau sẽ làm xuất hiện (khp), nó có hại cho nội tâm, cho sự sống
tinh thần của người đó.
Từ hai ví dụ trên, chúng ta có thể suy ra vô số các ví dụ khác, về mọi hoạt
động có ý thức khác, để đánh giá xem Hành Động nào sẽ làm xuất hiện (hp) hay
(khp) trong nội tâm con người.
Sự hình thành (hp) hay (khp) trong lòng con người, giống như hiện tượng bốc hơi
hay đông thành đá của nước vậy. Nếu trạng thái của nước sẽ bị biến đổi tùy theo
có sự tác động của nhiệt, bởi môi trường xung quanh nó; thì vấn đề Tinh Thần
cũng vậy, tùy theo sự ý thức về ý nghĩa của các Hành Động có chủ đích của mỗi
người, mà sẽ làm cho cái tâm A hay cái lòng của người đó sẽ được “bốc hơi”
thành (hp) hay sẽ bị “đông” thành (khp) vậy.
Hiện tượng biến đổi cảm xúc tự nhiên trên của con người, đã cho thấy sự hiện diện
của LƯỚI TRỜI hay của LÝ LẼ TẠO HÓA, đã được tạo hóa cài vào trong mỗi con
người ngay từ bẩm sinh hay từ bản năng sinh tồn tự nhiên, có trong mỗi con
người từ khi mới được chào đời.
Vì vậy, người xưa thường nói: “Lưới trời lồng lộng, không lọt cây kim”, “Ở hiền
gặp lành”, “Ở ác trời không tru đất cũng diệt”, v.v... Hay như:
“Những phường bất nghĩa bất
nhân, Lưới trời đâu dễ thoát thân ra
ngoài”.
Những nội dung trên phải chăng là rất có căn cứ. Chúng không mang tính dị đoan
hay duy tâm vô lý, mà tất cả đều có thể trên cơ sở chứng minh khoa học. Nhưng
chỉ có điều: thế nào là ác, là thiện, là (hp) hay (khp)? Chúng biểu hiện ngay
trước mắt hay về lâu dài ra sao? Chúng biểu hiện đối với mỗi đời người, và đối
với cả cộng đồng xã hội rộng lớn, thì như thế nào? Tất cả đều phải cần thông
qua nghiên cứu và chứng minh một cách khoa học mới xác định được.
Từ nội dung kể của hai ví dụ tiêu biểu trên, chúng ta có thể đúc kết: có nhiều
Hành Động mang mục đích rất tốt, mang ý nghĩa đạo đức rõ ràng, nhưng thật ra nó
mang ý nghĩa vì “đạo đức” hơn là vì mục đích Hạnh Phúc thực tế cho con người.
Hoặc có nhiều Hành Động mang nội dung triết lý rất cao siêu, kêu gọi mọi người
cùng hưởng ứng, nhưng thật ra chúng chỉ mang ý nghĩa “vì danh nghĩa của triết lý
đó hơn là vì mục đích mang lại hiệu quả Hạnh Phúc thực tế cho mọi người hôm nay
và cho các thế hệ mai sau”. Hay có thể nói chúng đang có hại cho con người.
Nhìn chung, đó là những Hành Động chỉ nhằm đem lại sự bằng lòng cho một giới
hạn người trên tất cả, và chỉ trong một giai đoạn thời gian thay vì cho mãi
mãi. Nên tất yếu, chúng chỉ làm phát sinh các (khp) trong môi trường sống xã
hội, nói chung. Có những (khp), con người khó có thể cảm thấy trực tiếp ngay
trong một không thời gian gần trước mắt, mà nó bị trải rộng ra theo một không
thời gian khá xa, làm cho con người khó có thể đúc kết mạch lạc đâu là nhân và
đâu là quả của vấn đề.
Cũng có khi chúng là những Hành Động mang ý nghĩa, nửa ác nửa thiện, cộng với
sức chứa nội dung chiều sâu của nó; nên liền một lúc, nhiều khi không đủ điều kiện
để con người lần ra bản chất thật của một hiện tượng hay của một vấn đề.
Điều đó cho thấy vấn đề đi tìm ranh giới của sự mâu thuẫn giữa con người với
nhau, cũng tức là đi tìm đường ranh giới giữa cái thiện và ác, là một công việc
rất phức tạp; nó cần có sự tập hợp rất nhiều công sức và thời gian của tất cả
mọi người, thì mới có hi vọng tìm thấy trọn lời giải cho vấn đề.
Sự sống loài người là một thể thống nhất; nếu một ranh giới thiện và ác chưa
thông, thì tất cả đều sẽ mang mầm chưa thông. Tức là mọi con người sẽ đều mang
mầm (khp). Có người có điều kiện, có thể tạm thời vượt qua được các (khp); nhưng
người khác thì không thể, nên đành phải đón nhận trực tiếp sự thống khổ từ các
mầm (khp) đó. Nếu như mầm (khp) chung chưa bị tiêu diệt, thì nó sẽ luôn chờ cơ
hội để tấn công con người từ mọi phía và với bất kỳ ai, tại một yếu điểm nào
đó.
Hiện tượng trên chứng minh: vì sao loài người đã bỏ ra nhiều công sức để nghiên
cứu mô hình giáo dục con người, nhưng kết quả bao giờ cũng vấp phải những khó
khăn bất ngờ tiếp theo, với nhiều vấn đề mới càng phức tạp hơn và cũng càng khó
giải quyết hơn!
Và hiện tượng trên cũng minh chứng: vì sao các bậc cha mẹ không thể chỉ nhau
được về cách dạy con tốt, mà tất cả vẫn xảy ra như một ngẫu nhiên định mệnh
“người này có con tốt, người kia lại có con hư!”.
Hay nó cũng chứng minh: khi con người bị thất bại trong mục tiêu giáo dục đào
tạo con người, thì quay sang dùng quyền áp đặt để ngăn cấm mọi biểu hiện bị
nghi vấn là nguyên nhân gây hệ quả tiêu cực cho các vấn đề đời sống của con
người và xã hội. Cấm nghiêm, phạt nặng để răn đe, nhưng hiệu quả thu được
thường cũng vẫn không cao; vì cấm và phạt một chiều là không hợp với bản chất
sinh tồn của con người. Tuy nhiên, ít nhiều chúng cũng đem lại một vài kết quả
trước mắt; trong đó có phần nhờ kềm hãm sức sống của con người, kềm hãm con
đường phát triển tự nhiên của con người, hơn là vì con người thống nhất hiểu ra
cái sai mà tự giác điều chỉnh các sai trái của mình.
Sự sống nào trái với lý của tạo hóa cũng đều phải bị trả giá đắt dưới nhiều
hình thức khác nhau. Nó giống như sự “ngăn sông cấm chợ” đối với sự sống tự
nhiên của con người. Cấm được chợ lớn, thì bắt buộc nó phải hình thành ra trăm
chợ nhỏ khác. Hay trừ phi con người không còn nhu cầu ăn uống nữa, thì chợ mới hết
hợp, nước mới hết chảy; thì lệnh cấm kia mới trở nên có hiệu lực trong thực tế
vậy!?
Nếu cấm và phạt phải đi liền với sự giác ngộ, sự tự giác và sự chứng minh khách
quan: “tất cả là vì lợi ích sự sống Hạnh Phúc của mọi con người”, thì sự ngăn
cấm đó mới nhất định có nhiều cơ may thành công. Còn không, nó sẽ như “nước đổ
lá môn” mà thôi.
Sự giác ngộ thì lệ thuộc chính vào sự phân định ranh giới thiện và ác cụ thể.
Sự phân định trên chỉ cụ thể khi mọi con người đều có thể xác định được ý nghĩa
Hành Động của mình là (hp) hay (khp) một cách cụ thể, đơn giản, dễ hiểu, hiệu
quả và dễ ứng dụng trong thực tế.
8. KINH NGHIỆM DÂN GIAN
Để phân biệt giữa đúng và sai, thiện và ác trong phạm vi thực tế đời thường,
thì kinh nghiệm dân gian cũng khá đủ để con người giải quyết được không ít vấn
đề.
Ví dụ: đánh đập người dã man thì nhất định đó là ác. Làm quan mà ăn hiếp dân
lành, đục khoét của công, đòi tiền hối lộ, thiên lệch trách nhiệm, quyền uy
hách dịch, v.v... nhất định cũng là ác vậy. Làm giàu mà không biết thương
người, ức hiếp, bắt chẹt người nghèo, đổ oan tội cho người khác, v.v..., thì
cũng gọi là ác. Làm người mà sản xuất hàng giả, thuốc giả để bán, lừa người để
cướp tiền, tấn công người vì tham lam, gây chuyện bịa đặt để làm xấu người lợi
mình, v.v... vậy cũng gọi là ác.
Nhưng vì sao con người trở thành ác, có phải người ác là người hoàn toàn xấu
không? Có phải chỉ có người bị bắt thành tội mới là người ác, còn những người
còn lại, tất cả đều toàn thiện chăng? Đến đây kinh nghiệm dân gian đành bó tay,
mất phương hướng lý giải và thường gom tất cả những bế tắc còn lại của sự sống
giao khoán cho... Thượng Đế giải quyết!?
Đây rõ là một vấn đề phức tạp. Vì sự thật, có nhiều chứng minh thực tế cho
thấy, bản chất con người sinh ra không ác, mà chính đời sống hay hoàn cảnh xã
hội đã làm cho con người trở nên ác độc và nguy hiểm!
Nhưng xã hội là ai, ngoài hai nhóm người thiện và ác trên. Người ác từ đâu mà
có, nếu không phải từ người thiện mà ra. Như vậy, có phải chính người thiện là
nguyên nhân đã làm phát sinh ra cái ác nơi con người? Nếu định nghĩa, ai tạo ra
điều ác thì người đó là ác: vậy suy ra, mọi người thiện đều là người ác? Hay
mọi con người sinh ra đều thiện, nhưng sau thời gian lớn lên đều dần dần biến
thành ác?
Nhưng kinh nghiệm dân gian cũng cho rằng xã hội vẫn có nhiều người tốt, người
thiện, đâu phải ai cũng ác. Nếu vậy, đâu là tác nhân gây nên hiện tượng ác
trong sự sống quan hệ giữa con người với nhau.
Nếu con người đổ trách nhiệm cái ác là do trời đất tạo ra để trừng phạt loài
người, thì sự đoán lý đó không phải ai cũng công nhận. Vì vậy, hãy quay về với
kinh nghiệm dân gian trước các cái ác, để hi vọng có thể tìm ra được phần nào
các đầu mối nguyên nhân đã gây ra tính ác nơi con người.
Kinh nghiệm dân gian là mọi người đều muốn có sự sống bình yên và hạnh phúc.
Nhưng hạnh phúc bao giờ cũng là “chín người mười ý”, “đèn nhà ai nấy rạng”,
“hồn ai nấy giữ”, thành ra sự sống con người khác gì “trống đánh xuôi kèn thổi
ngược”, không ai chịu ai, nên ắt phải thành rối vì mâu thuẫn với nhau.
Con người thấy vậy mới tổ chức lại xã hội cho ổn định để... mà sống. Nhưng, một
ngày kia:
“Nhiều quan thêm khổ thằng
dân, Nhiều giàu lại chết trân thằng
nghèo.”
Bấy giờ, con người cho rằng: “Trời kêu ai nấy dạ!”. Nhưng cũng đến lúc, tiếng
“dạ” vẫn không đủ để làm yên lòng mọi người, nên con người phải kêu:
“Trăm lại ông trời chớ điếc, đừng
đui, Để hai con mắt coi người thế gian”.
mặc dù đã bao lần cố gắng tự nhủ:
“Số lao đao phải sao chịu
vậy, Số ăn mày bị gậy phải mang.”
Nhưng phải chăng trời đã điếc, đã đui không thấy người thế gian? Sự thật có lẽ
Trời kêu người thế gian phải tự thấy và sửa mình trước đã, thì khi đó Trời mới
làm cho cái ác mất đi, đời sẽ hết khổ và mọi người sẽ tìm thấy được Hạnh Phúc.
Dân gian hay nói:
“Ăn cắp quen tay, ngủ ngày quen
mắt”. “Ăn quen, nhịn không quen”.
Hay có thể suy ra:
“Đã quen làm quan thì khó làm
dân Đã quen ở giàu thì ghét ở nghèo
Quen cách sống nào thì khó bỏ cách sống ấy”. (Tác giả)
Vì phải chăng: “Quen mặt, đắt hàng”.
nên có thể suy ra:
“Trước suy nghĩ sau, nay suy nghĩ
vậy Trước quan điểm đúng, nay ắt cũng
đúng Trước làm việc thiện, nay ắt cũng
thiện (?!)”. (Tác giả)
Như vậy, cái ác có thể bắt đầu từ thói quen của con người. Tạo hóa sinh con
người ra là đã quen thích sống bình yên và hạnh phúc. Nhưng tạo hóa sinh con
người ra cũng đã có người xấu, người đẹp, người mạnh, người yếu, người thông
minh, người chậm chạp, v.v... và người may mắn, người kém may mắn. Từ cái ngẫu
nhiên ban đầu đó, mỗi người quen dần với cách sống chênh lệch cách biệt, giữa
bên này có ưu thế và bên kia thì không.
Nhưng cũng một ngày kia ngẫu nhiên do thiên tai địch họa chẳng hạn, thì chợt
người có ưu thế bị mất ưu thế và người không thì lại có. Sự đổi ngôi bất ngờ đó
đã chống lại thói quen sống thường có của con người, nên đã sinh ra nhiều tai
họa oan ức phức tạp và bất ổn.
Mặt khác, tạo hóa sinh con người ra đã có thói quen muốn không ngừng phát triển
những lợi thế mà do tình cờ người này hay người kia có được.
Từ hai trường hợp trên, chúng ta có thể suy đoán ra hai mầm ác: “người có ưu
thế” muốn mãi mãi “người không ưu thế” phải chịu sự điều khiển theo hướng có
lợi cho mình, mọi sự chống đối sẽ bị đáp lại bằng sự chủ quan của những người
đang có ưu thế... gây ra tội ác.
Trường hợp thứ hai, sự đổi ngôi bất ngờ càng làm tăng cường cái ác bởi các cuộc
trả thù lẫn nhau từ cả hai phía. Ác cộng ác làm hình thành nên một môi trường
sống dễ gây nhiễm ít nhiều tính ác nơi mỗi con người. Nó được truyền từ môi trường
sống của thế hệ này đến môi trường sống của các thế hệ tiếp nối sau.
Như thế, cái ác được sinh ra tự nhiên từ lúc bắt đầu có sự hình thành khả năng
“có ý thức” của con người. Có nghĩa là, vì có ý thức về ưu thế có được ngẫu
nhiên giữa con người với con người, mà loài người trở nên chia rẽ nhau, không
ưa nhau và căm thù nhau...
Bản chất của cái ác được phát sinh từ người có mức sống chiếm ưu thế trước. Để
bảo vệ và duy trì quyền lợi của những người có mức sống ưu thế, con người hình thành
ra một bộ máy quyền lực để bảo vệ quyền lợi của những người đó. Khi bộ máy tạo
cái ác đến cực điểm đối với con người, thì con người sẽ đứng lên lật đổ bộ máy
đó, để muốn tìm về với sự sống bình yên và hạnh phúc mà tạo hóa đã muốn ban cho
loài người.
Nhưng bộ máy quyền lực dù có thay đổi bao nhiêu lần, mà cái ác phát sinh từ
thói quen nguyên thủy muốn giữ mức sống ưu thế bằng bạo lực vẫn còn, thì sức
mạnh của bộ máy nào rồi, nếu không khéo, sẽ lại thành sức mạnh đại diện cho cái
ác. Thói quen của cách sống sai lầm tiêu cực nguyên thủy, luôn có sức trội hơn bất
kỳ sự nhận thức hay ý chí sắt đá và kiên định vì một mục đích tích cực nào đó
của con người.
Như vậy, yêu cầu sửa cái ác nơi con người, tức là phải sửa cái thói quen nhận
thức nguyên thủy ấy trước đã. Điều đó có nghĩa: con người phải sửa lại thói
quen nhận thức về các Hành Động sinh tồn của mình, như là chúng có đang mang
những ý nghĩa có nguồn gốc bạo lực hay không, và đang được ứng dụng ra sao,
v.v...
Hay phải bắt đầu từ sự ý thức lại về các Hành Động của con người, xem chúng
đang nhằm theo đuổi mục đích sống gì? Có phải chỉ để sống và Hạnh Phúc hay
không? Nếu đúng như thế, thì phải chăng sự sai lầm bắt đầu từ khi những “người có
ưu thế” cho rằng: “HỌ PHẢI ĐƯỢC SỐNG và HẠNH PHÚC HƠN NGƯỜI” (!?).
Và tiếc thay, do từ cách hiểu đó đã cản trở con người hiểu ra: nếu người này
cần “sống và Hạnh Phúc”, thì người khác cũng cần như thế không khác gì nhau,
bởi tất cả cũng là CON NGƯỜI. Vậy là mâu thuẫn bắt đầu xuất hiện...
Nếu vậy, hãy chia các ưu thế kia ra để mọi người cùng được sống công bằng? Cách
giải quyết trên làm nẩy sinh một thói quen nhận thức mới: “thích không làm việc
hoặc làm việc tồi để ”bóc lột" sức làm của những “ưu thế” kia, do ỷ vào
luật “phải chia đều các ưu thế ra”. Bởi tạo hóa sinh con người ra ai cũng muốn
làm ít nhất, không mệt nhất, mà vẫn được hưởng một mức sống có lợi nhất. Chúng
ta có thể gọi đó là “QUI LUẬT MUỐN LỢI LỚN NHẤT, NHANH NHẤT VÀ ÍT TỐN CÔNG SỨC
NHẤT”.
Nếu như trên, biếng làm mà vẫn được sống sung sướng, thì tất yếu sẽ có nhiều người
cũng cùng muốn được sống như thế. Vậy là sản xuất bị đình trệ. Hay nó có nghĩa
là tất cả mọi người đang bị đe dọa bất ổn, trước một mức sống đang ngày càng bị
giảm sút. Điều đó chẳng khác gì báo hiệu một nguy cơ nổi loạn sắp sửa nổ ra như
đã nêu ở chương trước.
Như vậy, giải pháp “chia đều ưu thế” trên là không hiệu quả, vì nó đã cản trở
qui luật tiến hóa tự nhiên; nên nó cũng mang tính ác đối với sự sống của con người
và xã hội.
Như vậy, giữ riêng “ưu thế” là không được, chia ra cũng không xong; nên chỉ còn
con đường tạo khả năng hiểu về sự sống một cách hợp lý cho mọi người, thì sẽ
thành công chăng?
Hiểu thế nào mới được gọi là HỢP LÝ về “CON NGƯỜI, SỰ SỐNG và HẠNH PHÚC”?
Đó là cách hiểu về sự tiến hóa của nhận thức con người. Tức là, khi con người
tìm thấy sự hạnh phúc trong điều kiện tiện nghi vật chất, thì cũng đồng thời
con người hiểu ra rằng: chính trong quá trình làm việc để tạo ra những giá trị
hạnh phúc đó, con người cũng vẫn có thể cảm xúc được những hạnh phúc nhất định.
Hay trong khi phải học tập và rèn luyện để có những khả năng làm việc đó, thì
con người vẫn có thể cảm thấy có được một hạnh phúc nhất định. Ngoài ra, sự
hạnh phúc của người này sẽ có thể làm người khác đồng cảm theo về niềm vui hạnh
phúc ấy. Hay một sự giả dối về thông tin, ví dụ trúng số độc đắc, cũng có thể
tạo cho người nghe một niềm vui sướng hạnh phúc trong một thời điểm nhất định.
Hay có thể nói, hạnh phúc có thể được tạo ra từ một phương pháp luận nhất định;
mà trong đó con người sẽ được hứa hẹn về một tương lai hạnh phúc lý tưởng hay
tuyệt đối nào đó, sao cho người nghe cảm thấy hợp lý và có thể chấp nhận được.
Vì thế, chúng ta chia ra hai thứ hạnh phúc: một, có tính tiếp xúc trực tiếp đến
các thành quả hay các “giá trị vật chất cụ thể”, và hai là các cảm xúc hạnh
phúc được phát sinh từ trong các “lý lẽ hứa hẹn”. Và chúng ta có thể gọi hạnh
phúc đầu là HẠNH PHÚC CỤ THỂ, nó mang tính vật chất; và hạnh phúc sau là HẠNH
PHÚC HỨA HẸN, nó mang tính tinh thần.
Một Hạnh Phúc Hứa Hẹn đúng sẽ là điều kiện để Hạnh Phúc Cụ Thể được phát triển
thuận lợi. Ngược lại, một Hạnh Phúc Hứa Hẹn sai, thì sẽ là sự cản trở cho các
Hạnh Phúc Cụ Thể. Hay nếu Hạnh Phúc Hứa Hẹn đúng, thì nó sẽ phải phát triển
trên cùng con đường phát triển của Hạnh Phúc Cụ Thể.
Từ các minh chứng, chúng ta có thể kết luận: “cái ác có gốc hình thành từ các nhận
thức sai lầm của con người, vì cho rằng phải dùng bạo lực thì hai hạnh phúc kia
mới khớp được nhau”. Nhận thức lâu ngày biến thành thói quen, thói quen lâu dần
trở thành các phong tục tập quán tự nhiên và được nhập tâm vào mọi hoạt động
sinh tồn của con người. Phải chăng, đó là bản chất cấu thành của các cách sống của
đa số con người thời đại!
Nếu cách sống sai lầm và đau khổ được kết cấu bởi bao nhiêu thói quen nhận thức
và cảm xúc, thì nay cần được thay thế bằng một lượng thói quen tương ứng, nhưng
đúng hơn và hạnh phúc cho con người hơn. Sự thay thế đó có thể được tiến hành
bằng nhiều phương pháp luận đa dạng, trong đó có phương pháp luận của ngôn ngữ
A như đã giới thiệu.
Với ngôn ngữ A, hy vọng con người sẽ tìm thấy được một Hạnh Phúc Hứa Hẹn ĐÚNG thay
chỗ cho các Hạnh Phúc Hứa Hẹn SAI mà nhiều người đã từ lâu quen dùng. Hay đó
cũng là sự xây dựng một Hạnh Phúc Tinh Thần kiểu mới cho cân đối với sự phát
triển về Hạnh Phúc Vật Chất, mà trong quá trình tồn tại và phát triển con người
đã ra sức tạo dựng thành công như đáng có.
Mặt khác, trong bản chất sinh tồn tự nhiên của con người, con người sẽ có
khuynh hướng tìm về cội nguồn bản chất nguyên thủy của mình, như lá phải rụng
về cội; và vật chất cũng phải trở về với tinh thần cội nguồn, như là một bản năng
tự nhiên mỗi khi con người muốn đưa mức sống vật chất lên đến một đỉnh cao hơn.
Như vậy, khi con người ý thức ra sự ưu việt của giá trị Hạnh Phúc Tinh Thần,
thì sự chênh lệch sở hữu về vật chất sẽ không còn là nguyên nhân để con người
phải mâu thuẫn sống còn với nhau nữa mà sẽ lại biết cách làm chủ vật chất một
cách thành công, phi bạo lực và đạt hiệu quả.
9. RANH GIỚI THAY ĐỔI CÁCH SỐNG
Như vậy nguyên nhân của cái ác có từ gốc nguyên thủy, đã bị hòa tan vào cách
sống của con người. Nó được tồn tại dưới hình thức “thói quen truyền kiếp”.
Thói quen được thể hiện bằng ý thức lâu ngày sẽ biến thành “thói quen vô thức”.
“Thói quen vô thức” được sử dụng thường xuyên, sẽ trở thành những “kinh nghiệm
nhận thức” tự nhiên hay thành những “phong tục tập quán” tự nhiên trong đời
sống con người.
Thay đổi cách sống “ác” thành “không ác”, có phải là bằng sự thay đổi “cái tâm
vô thức” của con người, hay bằng sự thay đổi các nhận thức về ý nghĩa của các
Hành Động trong sự sống thường ngày của con người một cách có “hệ thống”. Hệ thống
đó có tên là “Hệ thống của môi trường ngôn ngữ”, như “môi trường ngôn ngữ A”
chẳng hạn.
Nội dung cơ bản để làm thay đổi một môi trường ngôn ngữ là: nếu lâu nay con
người lao vào công việc chỉ quen nhắm đến mục đích, “mưu cầu quyền lợi cho riêng
mình hay cho ”phía mình", thì nay nên nghĩ thêm “CÒN NGƯỜI KHÁC SẼ THU
ĐƯỢC LỢI ÍCH RA SAO ĐÂY” từ những công việc đó.
Sự thay đổi nhận thức trên tuy đơn giản, nhưng nó có vai trò quyết định căn bản
để làm thay đổi từ “cách sống có mầm ác” trở thành “cách sống có mầm thiện”:
hay nó làm thay đổi từ cách sống có mầm đau khổ (khp), sang cách sống có mầm
hạnh phúc (hp) trong nội tâm con người.
Nó cũng sẽ làm thay đổi thói quen sống của con người từ chỗ bị động và thụ động
trước môi trường quan hệ một cách vô thức, thì nay từng bước có thói quen ý
thức về các tác động của môi trường ấy, để chủ động được nó thành công hơn. Con
người từ chỗ để cách sống hình thành tự nhiên hay hình thành có chủ đích, nhưng
thiếu cơ sở nghiên cứu và chứng minh hiệu quả, thì nay con người có ý thức hình
thành nó một cách chủ động và toàn diện hơn, đồng thời cũng trên cơ sở có các
chứng minh hợp lý, khoa học và hiệu quả hơn.
Nói nôm na, đó là cách sống vừa có ý thức suy nghĩ về mình nhưng cũng vừa có ý
thức suy nghĩ về người khác; hay rộng hơn “biết suy nghĩ về mọi người”. Khi một
ý thức được lập đi lập lại nhiều lần sẽ tạo thành thói quen trong vô thức, cũng
là tác nhân chính tạo nên cách sống của mỗi người. Do đó, thay đổi được ý thức,
thay đổi được vô thức, thì con người sẽ thay đổi được cách sống của mình.
Trong môi trường của ngôn ngữ A, sự quan tâm của mỗi người đối với mọi người
khác không phải để áp đặt, mà là để tạo sự ý thức tự giác cùng tìm khả năng
giúp đỡ nhau vì lợi ích chung. Điều đó, nó có tính quyết định đến giá trị Hạnh
Phúc Tinh Thần của mỗi con người, hay đến tính thiện hay ác của mỗi người đó.
Sự quan tâm nhau đó còn được gọi nôm na là TÌNH NGƯỜI.
Khi mọi người có cùng thói quen quan hệ thông tin với nhau trên cùng một mặt
bằng của ngôn ngữ A chẳng hạn, thì mọi người sẽ dễ dàng hiểu nhau, cảm thông
với nhau và thống nhất với nhau về thế nào là sai hay đúng, thiện hay ác. Khi
con người thống nhất được với nhau về nội dung nhận thức, thì sẽ dễ thống nhất
được nội tâm, dễ ổn định được tinh thần và sẽ có điều kiện tạo tiền đề cho sự
hình thành mức sống Hạnh Phúc Tinh Thần được phát triển thuận lợi.
Như vậy, Hạnh Phúc Tinh Thần đối với mỗi đời người có một giá trị vô giá đặc
biệt nhưng lại rất dễ tạo ra, nó luôn trong phạm vi khả năng sẵn có của mỗi người.
Từ người giàu nhất đến người nghèo nhất, từ người địa vị xã hội cao nhất đến
người thường dân kém nhất, từ người thông minh nhất đến người dốt nhất, v.v...
cũng đều không khó khăn tìm về giá trị tinh thần của mình.
Lịch sử nhân loại là lịch sử của sự mâu thuẫn về các quan điểm giữa thiện và
ác, giữa đúng và sai, v.v... Do đó, con người có khuynh hướng tập hợp thành
nhiều hình thức tổ chức khác nhau; trong đó, đặc biệt có hình thức tổ chức của
bộ máy quản lý xã hội và bên kia là những người dân không tham gia trực tiếp
vào tổ chức của bộ máy quản lý đó.
Bộ máy quản lý xã hội có nhiệm vụ tập hợp ý kiến toàn dân để hình thành ra luật
pháp, và qui định mọi người phải thi hành theo các luật đó, dưới sự răn đe và
xử phạt theo một nguyên tắc bạo lực nhất định.
Bản chất của sự hiện diện bạo lực là báo hiệu có sự không thống nhất về các vấn
đề phải và trái, thiện và ác, v.v... giữa con người với nhau. Hay đó có thể vì
“lý thông mà tình chưa thông”. Theo ngôn ngữ A, thì lý như thế là sai; vì lý
đúng thì tình phải thông ở mọi nơi, ở mọi người. Tình thông, không phải chỉ
“bằng mặt” mà cả “bằng lòng”. “Bằng lòng” không phải chỉ với một người, mà phải
với tất cả mọi người. Chỉ như thế, lý mới đúng và bạo lực mới không còn tồn tại
trong thế giới con người.
Tuy nhiên, nếu lý dù có được thỏa đúng hết mọi yêu cầu của con người, nhưng con
người cũng vẫn có thể còn phạm luật; thì đó là vì căn bệnh “ghiền” cách sống cũ
vẫn còn. Khi đó, con người cũng vẫn phải cần đến bạo lực để khống chế. Như vậy,
ta nên phân biệt hai thứ bạo lực: “Bạo Lực Sai” thì hiện tượng ác tăng dần, còn
“Bạo Lực Đúng” thì hiện tượng ác giảm dần và biến mất.
Về bản chất, Bạo Lực Sai là biểu hiện sự bế tắc về lý của tâm; nên tạo không
khí nặng nề, thù hận, bực tức, xa cách, thách thức, không hồi tâm, không phục.
v.v... dù có phải đứng trước cái chết! Bạo Lực Đúng sẽ mang nặng tính tự vệ hơn
là tấn công; tạm thời và mất dần hơn là thường xuyên và tăng dần; bình đẳng đối
thoại hơn là áp đặt một chiều, v.v...; nên dễ tạo ra cảm thông, cởi mở và phục
thiện quay về với quyền lợi cơ bản mà “người sai” do vô tình vì nhiều lý do, đã
tự phá hỏng cái bản chất thiện của mình.
Về hình thức, “Bạo Lực Sai” không chú trọng lý giải bản chất của nguyên nhân
sinh ra tội phạm, không chú trọng lý giải bản chất sinh tồn của con người,
không chú trọng lý giải tội của một người là do tất cả mọi người, không chú
trọng lý giải chỉ ra con đường thực tế và thuận lợi mà bất kỳ mọi con người
muốn sống lương thiện nào cũng đều dễ dàng đạt đến, v.v...
Về hình thức, “Bạo Lực Đúng” chú trọng tạo điều kiện tối đa để người sai được
tranh lý công khai và bình đẳng với mọi người, nhằm tìm ra mọi nguyên nhân gây
ra từ môi trường sống, để mọi người cùng suy xét, đúc kết kinh nghiệm và cùng sửa
chữa. Còn “người mắc tội” phải chịu sự trả giá tùy theo kết quả tranh luận đó,
sao cho có sự kết hợp hiệu quả để những sai lầm như trên không có điều kiện tái
diễn.
v.v...
Tại môi trường B, do lý không thể thống nhất nội dung bằng tự giác, nên trong
các xã hội ngày nay, con người quen chia ý nghĩa Hành Động thành hai tính chất
cơ bản: tính chất “có quyền dùng bạo lực” và tính chất “không có quyền dùng bạo
lực”.
Tính chất đầu thường được con người gán cho những con người thuộc trong bộ máy
quản lý xã hội, và tính chất ý nghĩa thứ hai được hiểu dành cho những người dân
còn lại. Hiện tượng trên tạo ra một thực tế khách quan thường thấy: con người
dễ có cảm tưởng việc của “quan” thì hay có tính bạo lực, độc ác, uy quyền, hay
là dễ gây “mất lòng nhau và xa nhau”. Điều đó dễ tạo thành ấn tượng không tốt
trong mọi người về số người “có quyền” đó. Và “việc dân” thì thường ngại liên
quan đến “việc quan”, nên nó dễ sinh có tính thụ động, ngán ngại, đối phó
v.v... mỗi khi phải có chuyện đụng đến “việc quan”. Hay người ta thường cho
rằng: “việc riêng càng ít liên quan đến việc chung của ”quan" thì có khi
càng hay!".
Người ta thường hay ví: những người làm việc chung của xã hội là những người dễ
có liên quan đến “chính trị”; mà đó là lĩnh vực dễ bị “kỵ” bởi không ít người
dân, họ như luôn chỉ mong được hai chữ “bình an!”.
Sự ngăn cách về hai khuynh hướng ý nghĩa Hành Động trên đã vô tình trở thành sự
ngăn cách con đường phát triển tinh thần tự nhiên của cả cộng đồng. Bản chất
của sự phát triển tinh thần toàn diện của mỗi con người, là sự thống nhất toàn
diện về ý nghĩa Hành Động của mỗi người với các ý nghĩa vận động chung của toàn
xã hội. Do đó, khi con người tách chúng ra, là đã làm xuất hiện hai cách sống
nghịch nhau, khó hiểu nhau và dễ gây mâu thuẫn với nhau, trong cùng một môi
trường xã hội. Và như thế, cũng là vô tình làm đời sống tinh thần của con người
bị phân tán và yếu đi.
Từ hai hướng ý nghĩa trên đã khơi mào ra một môi trường sống với hai luồng dư
luận xã hội, như chúng ta đã được giới thiệu ở chương trước: Luồng Dư Luận Công
Khai và luồng Dư Luận Ngầm. Cũng từ đó xã hội đã tạo ra hai giới người: giới
người chạy theo hướng đề cao Dư Luận Công Khai và giới người đề cao cách sống
theo Dư Luận Ngầm.
Trong môi trường ngôn ngữ B, con người chỉ có quyền được sống và làm việc trên
cơ sở của Dư Luận Công Khai, vì nó phù hợp với các qui định của luật pháp xã
hội. Còn luồng Dư Luận Ngầm được hình thành tự phát và ngẫu nhiên, có tính bổ sung
tự nhiên vào những thiếu sót chưa hoàn chỉnh của luồng Dư Luận Công Khai. Nó sẽ
có thể dẫn con người đến phạm pháp, nếu có ai đó quá lạm dụng nó, bởi nó không
được luật pháp công nhận chính thức.
Tuy nhiên, trong xã hội người ta còn thấy: khi con người quá đề cao Dư Luận
Công Khai, thì sẽ dễ trở thành người phiến diện, cực đoan, độc đoán, thất nhân
tâm, hình thức, v.v...; từ đó làm nẩy sinh sự trà trộn của những kẻ theo chủ
nghĩa cơ hội với các “vai” như: nịnh hót, a dua, “thượng đội hạ đạp”, “ném đá
dấu tay”, v.v... Chúng ta gọi số người ngả theo hướng Dư Luận Công Khai là
“GIỚI NGOÀI”.
Và bên cạnh đó, số người còn lại ngả theo hướng Dư Luận Ngầm. Đó là số người có
thể trở thành tội nhân, v.v..., nhưng đó cũng là cái nôi nuôi dưỡng những người
cần cù, chất phát, sáng tạo, v.v... hay cũng là nơi để gieo mầm phát triển cho
xã hội. Gọi chung, đây là “GIỚI TRONG”.
Để tạo sự liên lạc thống nhất cho hai giới trên, phù hợp với yêu cầu của qui
luật vận động thống nhất của tạo hóa hay của sự phát triển xã hội, người ta
thấy có xuất hiện “GIỚI CÒ”. Giới Cò có nhiệm vụ móc nối những bế tắc, mà vì lý
do bản chất của mỗi giới trên, không cho phép họ được trực tiếp quan hệ công khai
với nhau, nên họ nhờ đến Giới Cò để làm trung gian cho các quan hệ đó, cũng như
để tạo cho môi trường xã hội được thống nhất và phát triển một cách thông
thoáng vậy.
Trong lịch sử xã hội, bất kỳ nơi đâu cũng đều có xuất hiện ba giới người trên,
làm nền cho sự vận động toàn xã hội. Tùy cách chọn vị trí mà xét, thì một trong
ba có thể chê hai giới kia là thiếu cái nhìn thực tế, thiếu giác ngộ, chưa có
nhận thức linh hoạt, sáng tạo, hay “đời cứ vậy mạnh ai nấy tìm vị trí mà sống”,
v.v...
Nhưng xét về mặt qui luật tiến hóa tự nhiên của xã hội, thì cả ba giới đều cần
thiết và hữu ích cho nhau. Song xét về chất lượng sự sống của con người thì cả
ba đều sai, vì nó làm cho sự nhận thức và sự phát triển tinh thần của con người
không đồng nhất.
Như vậy, vấn đề tìm đâu là nguyên nhân đầu tiên gây ra sự sai hay đúng trong
các Hành Động của con người, nếu chỉ qua đánh giá ý nghĩa Hành Động của họ nằm
ở một trong ba giới, thì vấn đề sẽ dễ thành phiến diện. Bởi vì, tất cả chúng
đều cần thiết cho nhau một cách khách quan, khi chúng đều có chung một gốc ngôn
ngữ B để tồn tại.
Chính vì thế, trong môi trường ngôn ngữ B, các ý nghĩa Hành Động luôn bị thiếu
điểm tựa để hợp thành một lý thống nhất. Hay chúng chỉ có nền tảng thống nhất
về danh nghĩa mà thiếu về thực chất; nên sự hình dung của con người về một mô
hình lý lẽ chuẩn mực, làm trung gian cho mọi phân định phải trái, sẽ luôn là
một thách thức rất khó vượt qua đối với mọi con người sống trong môi trường B
ấy.
Do đó, vấn đề tiên quyết trong môi trường ngôn ngữ A, là làm sao xóa bỏ các ranh
giới đã phân chia thành từng giới cục bộ kia, để xây dựng nên một môi trường
sống thống nhất cho mọi giới, về hình thức và cả về nội dung thực chất. Đó là
cách làm “phá cũ, xây mới” bằng một phương tiện duy nhất: “TRANH LUẬN CÔNG KHAI
VÀ BÌNH ĐẲNG VỀ MỌI NHẬN THỨC CỦA CON NGƯỜI, VỀ ”SỰ SỐNG VÀ HẠNH PHÚC",
DƯỚI GỐC ĐỘ CỦA NGÔN NGỮ A".
Ranh giới thay đổi cách sống là ranh giới: “thay đổi nhận thức về ý nghĩa Hành Động
của mỗi người trong mọi hoạt động tồn tại” là gì. Nhưng mỗi ý nghĩa Hành Động
sinh tồn đó, bao giờ cũng được dựa trên một tổng lượng nhận thức nhất định của
mọi người, nên sự thay đổi đó chắc chắn sẽ phải gặp rất nhiều khó khăn.
Hơn nữa, trong môi trường ngôn ngữ B, con người hay có thói quen muốn tránh
tiếp xúc trực tiếp đến các lượng nhận thức đó, vì chúng là các sản phẩm thiết
thân của bản thân nội tâm mỗi người; đó cũng là nơi nhạy cảm về sự tự trọng, tự
ái, hay sự tức giận, v.v... mỗi khi bị va chạm, mà vì thế con người rất khó
khăn khi phải đề cập đến. Nên khi khoa học chưa thể phân lý để giải thoát các
vấn đề nội tâm trên, thì các tranh luận trên sẽ rất dễ biến thành các mâu thuẫn
mất đoàn kết, gây bất lợi cho các quan hệ con người với nhau. Do đó, thường trong
cuộc sống, mâu thuẫn nhỏ thì con người cố tranh; nhưng lâu ngày nhiều dần,
chúng có thể sẽ tích tụ thành những mâu thuẫn lớn khó tránh, mà hậu quả là gây
ra thành các xung đột đối kháng, tạo ra các mất mát bất lợi cho sự sống con
người và xã hội.
Trong môi trường ngôn ngữ B, do xã hội đã được cấu tạo bởi những mầm móng mâu
thuẫn tất yếu về quan điểm sống và không đủ lý để thống nhất chúng lại với
nhau; nên trong quan hệ khi có biểu hiện mâu thuẫn, thì con người dễ đi đến
giải quyết các tranh giành bằng sự so sánh khả năng dùng quyền áp đặt đối
phương của mỗi bên, để xem bên nào phải chịu sự áp đặt “chân lý chủ quan” của bên
“ưu thế hơn”.
Sự so sánh quyền lực trên được chứng minh bằng nhiều cách, trong đó phổ biến
nhất là bằng sự so sánh về “bạo lực, tiền của và quyền thế”. Song trong xu thế
tiến hóa của thời đại văn minh, thì con người giới hạn sự tranh giành bằng bạo
lực công khai mà chuyển sang tranh giành về tiềm năng kinh tế, hay về các lợi
thế đa dạng khác mà mỗi bên có thể có, để tính thành ưu thế trong vận dụng có
lợi cho sự tranh giành quyền áp đặt chủ quan trước các đối phương.
Và ngày nay, để tránh bị lên án là đã tạo sự áp đặt bất công trực tiếp giữa bên
này với bên kia, con người chuyển sang áp đặt nhau về điều kiện môi trường sống
và phát triển của nhau. Nếu khi môi trường đó của con người bị bên này nắm giữ,
thì bắt buộc bên kia phải “tự giác” chịu sự áp đặt của bên ưu thế một cách...
rất hợp lý lẽ vậy.
Do đó, về hình thức công khai, có thể trong xã hội ngày nay con người như không
còn ai bức hại ai; nhưng về bản chất thì gần như vậy, và khác nhau về hình thức
biểu hiện. Vì vậy, trong môi trường ngôn ngữ B, con người vẫn có thể cho tranh
luận công khai mọi khía cạnh về “quyền con người”: nhưng ngoại trừ các nội dung
có thể làm mất ưu thế của những ai đang nắm giữ các quyền ưu thế đó.
Nhưng bản chất con người là do tạo hóa sinh ra; nên mọi con người, dù cách này
hay khác, cũng đều sẽ bị thất bại trước quyền lực của tạo hóa đó. Nó được biểu
hiện tập trung nơi cái tâm con người. Cái tâm được biểu hiện qua ý nghĩa Hành
Động của mỗi người vậy.
Ý nghĩa đúng thì tâm đúng, sự sống có Hạnh Phúc tốt đẹp. Ý nghĩa sai thì tâm
sai, sự sống bị lạc đường đến đích Hạnh Phúc. Khi lạc mục đích sống, thì nội dung
tranh luận bao giờ cũng có mầm sai lầm. Sư sai lầm đó sẽ có thể dễ bị phát hiện
trước các tranh luận công khai và trước ngôn ngữ A, trên cơ sở phát hiện các
mâu thuẫn giữa Dư Luận Công Khai với các nội dung phổ biến của Dư Luận Ngầm.
Ranh giới chiến thắng của ngôn ngữ A trước ngôn ngữ B, xét về thực tế đời sống
của con người và xã hội, là sự chiến thắng về khả năng thống nhất ý nghĩa sự
sống của mọi người trong xã hội với nhau. Vì bản chất của các lý giải của B về
sự sống đều mang tính Lý Lẽ Nhân Tạo, tức là thường mang tính chủ quan phiến
diện, nên sẽ khó có thể nào tạo được sự đồng tâm thống nhất của mọi người,
trước các vấn đề sự sống một cách tự giác.
Ngược lại, cách lý giải về sự sống của ngôn ngữ A mang tính Lý Lẽ Tạo Hóa, nên
nó dễ thích hợp với ý nghĩa sự sống của mọi người, về bản chất. Đặc tính của
bản chất là cần có thời gian để xác định, hoặc cần lượng thông tin toàn diện
thì kết quả mới có thể được dễ dàng kiểm chứng. Như vậy, ngôn ngữ A cần thật
nhiều thông tin để hệ thống hóa chúng lại, thì sẽ thắng được ngôn ngữ B trước
khi phải kéo dài thời gian.
Nội dung của Lý Lẽ Tạo Hóa trong ngôn ngữ A đơn giản chỉ là: mọi người hãy
“SỐNG HẠNH PHÚC CHO MÌNH VÀ CHO MỌI NGƯỜI”, bằng sự trang bị các nhận thức cơ
bản về thế nào là “Ý nghĩa sự sống và Hạnh Phúc của mỗi đời người”. Khi con
người đã hiểu ra các vấn đề trên, thì cũng sẽ ý thức ra vai trò trách nhiệm của
mỗi người trước cuộc sống, cho riêng mình cũng như cho cái chung ra sao. Có như
thế, mức sống tinh thần của họ mới có thể phát triển thành công, và nếu cộng
với sự phát triển về đời sống vật chất đang có của thời đại, thì có thể nói,
mục tiêu Hạnh Phúc của con người sẽ không còn là vấn đề xa xôi nữa!
10. NHỮNG ĐỔI THAY TRONG CUỘC SỐNG
Trong thời đại ngày nay, để hiểu thế nào là điều hay, lẽ tốt cho sự sống con người,
thường không khó nếu không nói là thừa. Tuy nhiên, làm cách nào để những nội
dung trên trở thành hiện thực, trở thành không còn là như cái cớ để con người
gây khó với nhau. Điều đó, ngày nay, đang vẫn còn là một đề tài muôn thuở đối
với con người.
Vấn đề trên, trong môi trường ngôn ngữ A, được lý giải bằng sự cung cấp các
điều kiện để mọi người đều có thể tranh luận bình đẳng với nhau, về ý nghĩa sự
sống và Hành Động đang có của mỗi người là gì. Nhờ đó, mọi người được nâng cao
ý thức về các hiện tượng quan hệ con người với nhau, để qua đó mọi người có thể
thống nhất tìm ra lời giải thích hợp cho mọi vấn đề.
Thực tế, trong cuộc sống đời thường của con người, hằng ngày đã xảy ra bao
nhiều là chuyện cần có lời giải cụ thể; trong đó có các vấn đề về sự mâu thuẫn giữa
con người với nhau, hay về các bế tắc của mỗi người trước môi trường sống xã
hội, hay trước các trở ngại trong nội tâm mỗi người.
Khi những mâu thuẫn nhỏ giữa con người với nhau chưa đủ lớn, chưa đủ trầm trọng
để thưa kiện bằng luật pháp, thì thường con người không biết làm sao giải
quyết. Nếu trong một gia đình, thì đã có cha mẹ hay ông bà phán xử. Nhưng nếu
bị xử sai thì sao? Song, dù sao cũng còn có người xử, nhằm hạn chế bớt những
xung đột trầm trọng có thể thể xảy ra.
Vậy, những vấn đề ngoài phạm vi gia đình, như xảy ra các mâu thuẫn nhỏ trong hàng
xóm, ngoài đường, từ chuyện người lớn đến chuyện trẻ con, v.v..., thì ai sẽ
đứng ra xử? Công an chỉ xử khi có ẩu đả, có án mạng, v.v...; mà như thế, khi
đó, phải chăng đã quá trễ?
Những mâu thuẫn nhỏ xảy ra trong các đơn vị sản xuất, giữa các quan hệ nhân dân
với chính quyền, giữa các đơn vị cơ quan với nhau, v.v.... thì bộ phận nào
trong xã hội có trách nhiệm giải quyết đến nơi đến chốn mọi mâu thuẫn đó, khi
mà chúng chưa hội đủ các yếu tố để phải dùng đến luật pháp và tòa án?
Trong khi điều dễ hiểu mà ai cũng biết và cũng dễ quên, là mọi hậu quả nặng nề
trong quan hệ con người với nhau, đều có nguồn gốc phát sinh từ những mâu thuẫn
nhỏ, “không đáng kể (?)” đó. Nhưng sự thật, khi con người biết sửa và khắc phục
được mọi mâu thuẫn nhỏ trong quan hệ con người với nhau, thì đó mới thật là hữu
ích; nhưng cũng sẽ vô cùng khó khăn. Nếu trừ được các sai nhỏ, thì các sai lớn
sẽ không còn cơ hội xảy ra, và sự sống con người mới có cơ hội được bình yên
thật sự một cách lâu bền.
Muốn sửa được mọi mâu thuẫn nhỏ từ trong trứng nước, con người phải nâng trình
độ tổ chức xã hội lên cao hơn; hay cũng có nghĩa, phải nâng trình độ về chất
trong nhận thức của con người lên mức cao hơn, mức “Khoa Học Hóa Tuyệt Đối các
Tổng Nhận Thức của Con Người” lại. Hay chúng ta có thể tóm tắt:
VĂN MINH = TỔ CHỨC + KHOA HỌC – BẠO LỰC
Thiếu tổ chức thì mất trật tự, mất trật tự thì “thằng chột” cũng có thể lên làm
vua, cái ác sẽ “đục nước béo cò”, và các quan hệ con người với nhau sẽ luôn bị
đe dọa như “chỉ mành treo chuông”!
Vì vậy, trong môi trường ngôn ngữ A, việc quan trọng hàng đầu là hình thành một
tổ chức, sao cho mọi người có nguyện vọng đều cảm thấy dễ dàng khi cần tham gia
vào tổ chức đó.
Trong khi đó, các tổ chức của môi trường ngôn ngữ B, con người thường chú trọng
đặt ra nhiều điều kiện khác nhau để hy vọng tập hợp được những người ưu tú,
nhằm hạn chế thấp nhất các phức tạp bất ổn có thể xảy ra từ các quan hệ trong
môi trường tập thể của các tổ chức đó.
Tổ chức của môi trường ngôn ngữ A được tập hợp theo nguyên tắc: “bản chất sinh
tồn của mọi người đều muốn có cuộc sống ổn định và tốt đẹp”. Điều ước muốn đó
có trở thành hiện thực hay không, là tùy vào những thông tin do tổ chức cung
cấp cho con người, có được đầy đủ và đúng hay không. Hay nó có nghĩa, sự thành
công của tổ chức không lệ thuộc điều kiện kết nạp con người, mà lệ thuộc chính
vào các nội dung nhận thức được giới thiệu bởi tổ chức đó, có giá trị thực tế
đối với sự sống con người như thế nào.
Nội dung nhận thức trên sẽ được tạo ra, bằng sự tham gia đóng góp của tất cả
mọi người, và được đúc kết lại bằng một phương pháp luận hiệu quả thích hợp; ví
dụ như phương pháp luận của ngôn ngữ A. Như thế, sự thành công của một tổ chức
rộng rãi, là tùy vào PHƯƠNG THỨC TỔNG HỢP MỌI NHẬN THỨC CỦA CON NGƯỜI LẠI để
thành một hệ nhận thức Thống Nhất, Khoa Học và Không Bạo Lực, có giá trị ứng
dụng trong hiện thực hay không.
Việc trên đòi hỏi ngôn ngữ đó phải có đủ cơ sở nghiên cứu thành công bản chất
con người, nếu nó muốn ứng dụng Phương Thức Tổng Hợp trên đạt thành công trước
mọi thực tế của cuộc sống. Nếu sự thành công trên được chứng minh trong hiện
thực, thì nó có nghĩa, sức mạnh bạo lực trong quan hệ con người với nhau sẽ có
ngày phải chấm dứt. Và khi đó, quyền tự do, bình đẳng giữa con người với nhau, hay
quyền sống hạnh Phúc của mỗi người mới có cơ sở thật sự được tôn trọng trong
thực tế cuộc sống vậy.
Nếu sự thành công của tổ chức ngôn ngữ A đã được chứng minh, thì con người sẽ
dần hình thành được một dư luận thống nhất trong cộng đồng. Khi đó, các hình
thức dư luận trở thành đại diện cho mức sống của mọi người một cách thống nhất.
Vì vậy, mọi người sẽ không cần dùng bạo lực để quan hệ với nhau, và cũng sẽ
không còn ai muốn phạm pháp chống lại mô hình trật tự có tính lợi ích chung đó.
Hoặc, dù con người có muốn chống cũng không thể chống được, vì mọi lý lẽ của
con người đều đã được dung nạp vào trong dư luận chung của tổ chức hay của cộng
đồng ấy, để mọi mâu thuẫn đều được có cơ hội tìm thấy lời giải ổn thỏa cho nó.
Có được một tổ chức như thế, mọi con người sinh ra đều không sợ không có Hạnh
Phúc. Nếu vì một lý do nào đó, con người không có được một tổ chức gia đình,
thì đã có tổ chức của ngôn ngữ A giúp sức. Nếu vì lý do gì đó, con người cảm
thấy cuộc sống không có Hạnh Phúc, thì đã có tổ chức A (tổ chức của ngôn ngữ A)
giúp xây dựng lại niềm tin và Hạnh Phúc, v.v... Bởi mọi nguồn gốc Hạnh Phúc đều
lấy từ nhận thức để xây dựng nên; trong khi Tổ Chức Tối Ưu là một mặt bằng có thừa
về số nhận thức trên, nên con người sẽ không còn sợ sống mà thiếu Hạnh Phúc
trong môi trường của tổ chức A vậy.
Trong cuộc sống quan hệ đời thường, con người có bao nhiêu là mâu thuẫn khó
giải, thì nay đã có tổ chức A sẽ giúp con người tìm ra sự phải hay trái hợp lý,
v.v... trong tất cả mọi hiện tượng về quan hệ con người. Khác với luật pháp là buộc
tội và trừng phạt, sự lý giải của ngôn ngữ A chỉ là sự tự nguyện phân giải tình
và lý của mỗi bên, để sau đó tùy mỗi người cảm thấy phải rút ra kết luận gì cho
có lợi nhất. Như vậy, sự hiệu quả của tổ chức A là sự hiệu quả trong các quan
hệ tự giác, thay vì bằng sự áp đặt thô bạo của bạo lực như trong mô hình quan
hệ của các tổ chức B (tổ chức của ngôn ngữ B).
Có một tổ chức như thế, sự bất hợp lý trong cuộc sống cộng đồng sẽ dần dần biến
mất. Trong tổ chức A, không thể có hố sâu ngăn cách giữa một bên là sự giàu có
vô hạn, còn bên kia là sự thiếu hụt trầm trọng về mức sống cơ bản; bởi sự phát
triển Tinh Thần của kẻ giàu là biết chia xẻ kịp thời và hợp lý cho những “người
khó” trong một cộng đồng NGƯỜI với nhau, v.v...
Khi mọi người đều không thiếu mức sống cơ bản, thì cũng đồng nghĩa: trong tổ
chức A không thể có người thất nghiệp; vì làm việc là một nhu cầu Hạnh Phúc cơ
bản của con người. Trong các nghề nghiệp mà con người có thể làm, thì Nghề Sống
là một nghề vừa cơ bản, vừa thích hợp cho mọi đối tượng, và nó cũng vừa không
bao giờ thiếu chỗ làm cho tất cả mọi người.
Bản chất của Nghề Sống là trang bị sự hiểu biết cho con người, sao cho mọi
người đều có thể đạt đến mục đích sống Hạnh Phúc một cách hiệu quả nhất, phù
hợp với điều kiện của mỗi người. Vì vậy, tất yếu nghề đó luôn là cần thiết và
thích hợp cho mọi người vậy.
Học Nghề Sống, con người sẽ có được cơ hội trang bị kiến thức về sự sống một
cách toàn diện nhất; hay nó cũng có nghĩa, ai cũng biết hướng Hành Động của
mình sao cho lợi ích riêng và chung cùng được phát triển một cách hòa hợp, cân
đối và hợp lý nhất.
Điều đó có nghĩa: mọi người đều biết suy nghĩ tự chủ về những ham muốn hay
những Hành Động của mình. Làm chủ được ý muốn, tức là trong xã hội sẽ không còn
có trẻ em bị thất học, không còn ai bị thiếu nhận thức về Tinh Thần, không còn
ai bị đứng ngoài sự giúp đỡ toàn diện của tổ chức, không còn ai phải đi ăn xin
vất vả, không còn ai thấy sự vô lý bất công trong cuộc sống, không còn ai thấy
bế tắc trong suy nghĩ và việc làm, không còn ai thấy người già bị bỏ cô đơn và
vô dụng, không còn ai thấy không có bất kỳ nổi khổ đau nào là của chỉ riêng ai,
v.v...
Hay nó còn có nghĩa: con người không còn sự gian dối, con người không còn lấy
cái ác để diệt cái thiện, con người không còn say mê vật chất mà quên mất bản
chất thật của mục đích đời người, con người không còn chạy theo những lý luận
cao siêu mà quên đi thực tế phải hỏi “mỗi người đang cần gì?”, con người không
còn môi trường để thực hiện điều ác để trở thành người ác, con người không còn
muốn làm mất đi sự trật tự và ổn định của môi trường sống, con người không còn
lấy thước đo tiền tài để làm vật khoe của hảy để làm phương tiện chính cho mục
đích lý tưởng hạnh phúc, con người không còn thói quen lấy thế mạnh sẵn có để
áp đặt quyền lực của mình trước quyền được sống bình đẳng và Hạnh Phúc của
người khác, v.v...
Hay tất cả đều có nghĩa: mọi người trong cộng đồng đều muốn được sống chung bình
đẳng và giúp nhau như trong một gia đình. Khả năng đó có thể biến thành hiện
thực hay không là tùy ở mỗi người, ở ngôn ngữ A và tùy vào sự mở đường của tổ
chức B, nó có gây cản trở mọi người được quyền tự do tranh luận để tìm ra một
định hướng tối ưu cho cuộc sống, vì quyền lợi của mọi người chứ không vì một tổ
chức quyền lực nào hay không?
Thông thường trong môi trường tổ chức B, do bị giới hạn về nhận thức, nên thói quen
dùng bạo lực để duy trì trật tự tổ chức thay cho khả năng giải quyết mọi vấn đề
bằng sự lý giải có tranh luận công khai và bình đẳng hai chiều với nhau, đã trở
thành một biện pháp thông dụng và phổ biến trong quan hệ con người với nhau. Vì
vậy, bạo lực là một thói quen nguy hiểm và quyến rũ nhất mà lịch sử nhân loại
đã phát sinh ra như để “cản trở” ngược trở lại sự tiến hóa tiếp theo của loài
người. Khi được chứng minh hợp lý, thì bạo lực sẽ trở thành một công cụ đắc lực
cho sự nghiệp chính nghĩa và anh hùng; nhưng nếu ngược lại, bạo lực sẽ biến
thành một thứ phương tiện tội ác hàng đầu của nhân loại.
Trong thực tế đời sống, bạo lực là một con dao hai lưỡi mà con người rất khó
phân biệt ranh giới. Vậy bằng cách nào con người có thể loại ra khỏi đời sống
con người và xã hội, mặt tiêu cực của phương tiện bạo lực ấy?
Cách hiệu quả duy nhất chỉ có thể là con người phải từ bỏ sử dụng bạo lực trong
quan hệ với nhau dưới bất kỳ lý do gì; ngoại trừ phải tự vệ bởi một sự tấn công
trước bằng bạo lực. Chỉ có như thế, bạo lực mới không bị lạm dụng từ nhiều
phía, mới không bị cái ác, cái sai lầm lợi dụng chống lại bản chất sống hoàn
thiện và phi bạo lực của con người xã hội văn minh.
Nhưng trong môi trường tổ chức B, do con người không có đủ lượng nhận thức và dư
luận cần thiết, để có thể ngăn ngừa và tự vệ hiệu quả trước các mầm móng đe dọa
tiền bạo lực; nên điều đó sẽ dễ trở thành nguyên nhân khách quan tác động, làm
cho một số người thiện phải dùng đến bạo lực trước khi bị tấn công. Và đó cũng
là một trong những lý do vô hình, đã thúc đẩy cái ác không ngừng phát sinh và
thế dần vào chỗ của cái thiện, đang như ngày càng bị ra đi trong môi trường B.
Do đó, sự ưu việt của môi trường A so với môi trường B nếu có, đó là sự dồi dào
về lượng NHẬN THỨC đủ để con người giải quyết hiệu quả mọi nguy cơ mầm móng
tiền bạo lực, trong các quan hệ con người với nhau. Và chính đó là điều kiện
tiền đề để xây dựng thành công một mô hình phát triển toàn diện về đời sống
Tinh Thần của con người và xã hội. Nơi đó, vai trò của phương tiện BẠO LỰC, với
bản chất bất lợi cho Hạnh Phúc Tinh Thần của con người sẽ phải không còn chỗ
đứng trong các quan hệ con người với nhau nữa.
Bản chất cái ác trong mỗi con người là sợ nhất sự mất đi phương tiện bạo lực,
như một điều kiện tiên quyết để giúp nó đạt đến các cứu cánh trong Hành Động. Trong
khi đó, mọi con người sinh ra và lớn lên đều bắt đầu từ sự thiếu nhận thức hay
thiếu khả năng lý giải mọi vấn đề, nên dễ quay sang dùng bạo lực hay dễ trở
thành người ác để mong đạt được mục tiêu mà mình ưa thích hay muốn có. Vì vậy,
nhu cầu được trang bị các nhận thức hữu ích, kịp thời cho các lứa tuổi của các
giai đoạn phát triển khác nhau, là một điều kiện sống còn để có thể đào tạo và
xây dựng thành công một thế hệ con người mới, hoàn thiện và tích cực cho xã hội,
trong một tương lai gần nhất. Hay lý đó cũng là đất để ngôn ngữ A dụng võ vậy.
Vậy môi trường của tổ chức A phải là một môi trường phi bạo lực, theo nguyên tắc:
tạo được sự phát triển vững mạnh cho một “TRƯỜNG” dư luận thống nhất, đủ để can
thiệp hiệu quả bằng mọi phương tiện của nhận thức và của các Hành Động thích
ứng, trước mọi mâu thuẫn bất hòa giữa con người với nhau trong xã hội.
Nguồn gốc của tội ác và bạo lực trong quan hệ con người với nhau, thường được
bắt đầu từ sự tranh giành về các quyền lợi, mà trong đó sự tranh giành về quyền
lợi kinh tế hay vật chất là phổ biến nhất. Do đó, muốn tránh được tội ác, muốn
tránh được bạo lực nơi con người, thì tổ chức A trước hết phải giải quyết thật
hiệu quả mọi nhu cầu hợp lý về đời sống vật chất của con người. Trong tổ chức
A, môi trường kinh tế sẽ phát triển thuận lợi hơn so với môi trường tổ chức B; vì
điều kiện kinh tế vật chất không còn là cứu cánh của sự sống con người nữa, mà
đã trở thành một thứ phương tiện đắc lực để xây dựng sự sống Hạnh Phúc cho con
người mà thôi. Nhờ vậy, con người sẽ không còn tranh giành chúng gay gắt như
trước nữa, mà con người sẽ biết cách lợi dụng chúng để phục vụ cho mức sống vật
chất chung của xã hội hay của mọi người một cách hiệu quả nhất.
Từ các nội dung khai mào trên, môi trường tổ chức A hy vọng sẽ xây dựng thành
công một môi trường sống hợp lý và lý tưởng cho sự sống con người. Nó được tồn
tại trên nguyên tắc của sự phát triển cân đối về đời sống vật chất và tinh thần
của con người, thông qua con đường khoa học hóa toàn diện tổng lượng nhận thức của
con người và xã hội. Hay nói cách khác, con người phải biết cách tổ chức thống
nhất mọi sự vận động phong phú của con người lại, một cách có ý thức, có tổ
chức, có chủ động và có tính khoa học triệt để nhất.
PHẦN VI
QUI LUẬT TIẾN HÓA
I. CON NGƯỜI LÀ AI?
Tạo hóa sinh ra vạn vật; vạn vật vô cơ vận động tiến hóa bằng sự tác động...
giữa các nguyên tử với nhau; vạn vật hữu cơ, thực vật, vận động tiến hóa như
trên, nhưng có thêm khái niệm trao đổi về chất; vạn vật động vật, vận động tiến
hóa như trên, nhưng có thêm sự vận động của các hệ thần kinh tiền não và não;
vạn vật “con người”, vận động tiến hóa như tất cả trên cộng lại, cùng với sự
phát triển của hệ thần kinh có Ý THỨC của não người.
Tạo hóa vận động theo một qui luật tiến hóa chung duy nhất và thống nhất. Do
đó, vạn vật tất yếu cũng phối hợp nhau, vận động tiến hóa theo mô hình trật tự
chung trên của tạo hóa.
Sản phẩm đỉnh cao của sự vận động tạo hóa, nếu xét về tính chất và từ góc độ
con người và ngôn ngữ A, là “sự vận động có ý thức của loài người”. Sự vận động
“có ý thức” đó sẽ là hoàn thiện, khi loài người đạt đến sự “có ý thức” về các
vận động vô thức của não người một cách khoa học.
Cây có gốc, nước có nguồn, nhân loại có tổ tiên và làm người phải có điểm tựa
để tiến hóa. Con người sống và phát triển nhờ điểm tựa nhận thức, trên nền của
khả năng ý thức của mỗi con người. Mất nhận thức con người sẽ mất điểm tựa.
Nhận thức sai sẽ cũng không khác gì sự thiếu nhận thức. Nếu con người sống mất
điểm tựa, thì như tạo hóa vận động mà thiếu qui luật vạch đường vậy.
Con người cần có “nhận thức đúng” như cá cần nước, như trái đất cần phải có mặt
trời chiếu. Để có nhận thức đúng, con người phải biết chọn điểm tựa để làm nền
phát triển cho nhận thức. Điểm tựa bị mất hay bị thay đổi, thì đời sống tinh
thần con người sẽ bị xáo trộn, sức sống sẽ bị ảnh hưởng. Điểm tựa nhận thức
càng cố định, thì thói quen tinh thần càng được không ngừng củng cố ổn định, và
sức sống của con người sẽ tất yếu càng được tích lũy, theo một nội dung hay một
tính chất sai hay đúng nào đó.
Vạn vật là đa dạng và biến đổi, nên con người chọn điểm tựa nhận thức là vật
chất, thì sẽ dễ trở thành phiến diện, chủ quan và kém ổn định. Nếu xe chạy từ
khởi điểm số O, thì nhận thức của con người cũng nên chọn khởi điểm từ số O.
Vậy, điểm tựa nhận thức tốt nhất của con người cũng nên chọn lấy từ KHÔNG (0)
làm gốc.
Tuy nhiên, mọi con người sinh ra trên thế gian này đều phải bắt đầu từ sự nhận
thức về tất cả là đang CÓ!. Vì vậy, bản chất tự nhiên của con người khi lớn
lên, đều chọn điểm tựa cho nhận thức của mình là CÓ (1), để làm nền cho mọi sự
phát triển tư duy và Tinh Thần về sau. Do đó, nếu con người muốn cho nhận thức
của mình được khách quan, ổn định và có thể đúng tuyệt đối hơn, thì phải trau
dồi nâng điểm tựa nhận thức của mình lên thành KHÔNG (0) vậy.
Nhưng đặc tính của vật chất là sự lôi cuốn của hấp dẫn và đam mê; nên do đó, sự
từ bỏ một đam mê cụ thể sang một đam mê trống không vô hình, sẽ là một việc làm
vô cùng nặng nhọc và khó khăn; mà vì thế, con đường “tu thân” từ lâu đã nổi
tiếng là con đường gian khổ đối với tất cả mọi người.
Nhưng mặt khác, bản chất muôn đời của con người là sự ham muốn TỰ DO; trong khi
đó, mọi sự đam mê về một khái niệm vật chất nhất định cũng đều biến con người
trở thành kẻ NÔ LỆ, hay là người mất tự do trước các ham muốn vật chất đó. Do
đó, sự sinh tồn của mỗi đời người sẽ như là một quá trình đấu tranh giữa một
bên, các nhu cầu được “tự do” vô hạn và bên kia là khuynh hướng trở thành những
kẻ bị gò bó hay bị “nô lệ” trước các đam mê vật chất.
Có không ít người sẵn sàng chết trước một đam mê vật chất nhất định, như một mơ
ước lớn nhất của đời họ. Và con người vẫn có thể có được một hạnh phúc nhất
định trong sự dấn thân đó. Tuy nhiên, nếu để ý xem xét chi tiết hơn, con người
sẽ dễ dàng nhận thấy các cách sống đó ít nhiều chủ quan, có khi có hại đến
người khác, đồng thời cũng đòi hỏi phải có một số điều kiện đặc thù nhất định,
v.v... Nhưng điều sai lầm nhất là chúng không tạo tiền đề để thống nhất quan
điểm sống giữa mọi người với nhau, mà là mầm móng của sự chia rẽ, đối đầu và
gây mất đoàn kết giữa con người với nhau.
Vậy bản thân sự đam mê không, chưa đủ để định nghĩa trọn vẹn khái niệm Hạnh
Phúc đời người, mà nó cần được lý giải thêm ý nghĩa của sự đam mê đó đối với sự
nghiệp xây dựng Hạnh Phúc chung cho toàn xã hội là gì. Hay có phải nó đang có
thể làm xấu đi sự nghiệp xây dựng một môi trường sống hòa bình và Hạnh Phúc
chung của mọi người, theo một kiểu cách nào đó không?
Nó chỉ được gọi “có ý nghĩa đầy đủ”, khi con người có thể chứng minh ý nghĩa
giá trị tích cực của nó trên tổng thể vận động của cả cộng đồng người; hay
tuyệt đối hơn, trên tổng thể vận động của tạo hóa nói chung, thông qua các hiện
tượng môi trường sống của trái đất nói riêng.
Trong thực tế, phải chăng chỉ có sự lý giải đam mê về số (0) vô hình tinh thần,
làm nền cho sự đam mê vật chất cụ thể, mới đủ khả năng giúp con người tìm ra
lời giải tối ưu cho vấn đề. Bởi trước và sau một đời người đều có chung một đáp
án của ẩn số (0); mọi sự bắt đầu và đỉnh cao giới hạn của nhận thức con người
cũng đều có chung ranh giới (0); hay từ không biết đến biết thuần thục, không
thể biết hơn nữa, đến ranh giới của sự không thể nghiên cứu hiệu quả hơn nữa,
v.v... đều có liên quan đến điểm giới hạn của cái (0) vĩnh cữu.
Hay nó có nghĩa; bản chất của sự tự do là “không” bị ràng buộc, bản chất của sự
ham muốn đam mê là “không” có lối thoái; tất cả đều gặp nhau tại “không” (0). Như
vậy, con người chọn điểm tựa nhận thức là số (0), sẽ vừa tiện cho ý muốn “tự do
tinh thần” và vừa tiện cho sự đam mê “nô lệ vật chất”. Chúng ta có thể gọi sự
sống con người là một quá trình chu chuyển giữa sự “vật chất hóa tinh thần” và
sự “tinh thần hóa vật chất”, mà (0) là điểm gặp nhau của sự hoán đổi vai trò và
chức năng của hai phạm trù cơ bản trên.
Có được điểm tựa (0), giống như Tinh Thần con người đã được chuẩn bị một tờ
giấy trắng, mọi sự tô vẽ vật chất lên đó đều sẽ được nhận dạng dễ dàng. Nhờ đó,
con người sẽ được thuận lợi khi muốn phác họa một định nghĩa lý tưởng nhất về
“Sự Sống và Hạnh Phúc” cho con người, một cách hợp lý và khoa học nhất.
Điểm tựa (0) thường được gọi là “định tâm”, tức là “tâm” luôn giữ được thế ổn
định và chủ động. Tuy nhiên, nếu mọi người đều hướng sự ham muốn của mình đến
điểm (0) để định tâm tất cả, thì e rằng xã hội sẽ bị thiếu của cải vật chất để
phát triển sự sống. Bởi, từ bản chất thói quen sống vật chất chuyển sang bản chất
thói quen sống trừu tượng tinh thần vô hình, đều cần phải sử dụng đến một lượng
thời gian và công sức rất lớn. Vậy, trong thời gian đó, phải chăng mọi vận động
sản xuất vật chất của con người và xã hội sẽ phải bị ảnh hưởng rất lớn.
Giống như trong một xã hội, nếu tất cả đều “gõ mõ tụng kinh”, thì có lẽ xã hội
sẽ phải báo động vì... bị thiếu lương thực để dùng. Do đó, nếu xã hội đòi hỏi
mọi người phải chọn đích quay về (0), hay gọi đó là con đường toàn “thiện”, thì
cái bản năng tồn tại và phát triển của xã hội loài người sẽ bị đe dọa vì những
ý muốn chủ quan đó. Nói nôm na, nếu xã hội bắt tất cả mọi người đều “chính
thiện” theo cách trên, thì mọi người sẽ đều có thể trở thành “chính tà” hơn là “chính
thiện” trong thực tế vậy.
Nếu bản chất sinh tồn của loài người là không bao giờ muốn thành chính tà, thì
vấn đề chỉ còn cách, mọi người phải cùng chấp nhận có sự phân công nhau để chọn
các điểm tựa sống khác nhau trong một xã hội. Người chọn điểm tựa nuôi cha,
nuôi mẹ, nuôi gia đình, nuôi con cái là chính; người chọn điểm tựa kinh doanh
thương mại, trao đổi lưu thông hàng hóa là chính; người chọn điểm tựa làm người
phụ việc cho các mục đích trên được hoàn thành là chính; người chọn điểm tựa
nghiên cứu khoa học để nâng cao và phát triển đời sống con người là chính,
v.v...; và có người chọn điểm tựa (0) hay tâm (0) là chính.
Bản chất của tâm (0) là nhằm giúp cho con người không tìm thấy lối thoát khỏi
môi trường tinh thần tự do, và luôn tìm thấy được lối ra trong môi trường vật
chất nô lệ; để cuối cùng, nó tạo nên sự vô ưu khách quan nhất cho sự phát triển
ổn định Tinh Thần của mọi con người. Nếu gọi điểm tựa được chọn của đa số người
là một tâm khác (0) hay tâm (1), thì bản chất tâm (0) là phải giữ cho mọi (1)
được phối hợp nhau phát triển ổn định, phi bạo lực và Hạnh Phúc.
Muốn vậy, giữa (0) và (1) phải hình thành sự thông tin liên lạc mật thiết với
nhau. Đó là các quan hệ hai chiều, thông qua những lý giải về ý nghĩa của các Hành
Động của tất cả (1); sao cho giữa chúng không có bị giẫm đạp lên nhau, chồng chéo
triệt tiêu lẫn nhau, vì các mâu thuẫn quyền lợi với nhau, v.v... Nếu được thế,
thì mọi (1) cũng không khác gì có được tâm định là (0) vậy.
Yêu cầu trên đã ngẫu nhiên đòi hỏi sự sống của MỖI NGƯỜI phải bao gồm hai mục
đích sống: một của Mục Đích Hành Động và một của Ý Nghĩa hành Động. Để đạt được
Mục Đích Hành Động thì cần phải mất một thời gian nhất định; còn Ý Nghĩa Hành
Động thì luôn thường xuyên xảy ra trong suốt mọi thời gian vận động sinh tồn
của mỗi hay của mọi đời người. Vì vậy, nếu con người biết chọn Ý Nghĩa Hành
Động làm mục đích sống chính ở đời, thì hạnh phúc vui sống sẽ thấy xuất hiện
trong suốt thời gian đời người. Sự vui sống đó sẽ càng thúc đẩy con người càng
tích cực hơn để đạt đến các Mục Đích Hành Động. Và như thế, các Mục Đích Hành
Động sẽ sớm được hoàn thành hơn, cũng tức là mục đích Hạnh Phúc đời người sẽ
mau thành hiện thực hơn.
Chúng ta hãy so sánh: ý nghĩa của tâm (1) là “có tâm (0)”, ý nghĩa của tâm (0)
là “có tâm (1)”. Ý nghĩa của “có tâm (0)” là biết nhận thức về Ý Nghĩa Hành
Động của mỗi người trước quyền lợi riêng và chung một cách Hợp Lý; ý nghĩa của
“có tâm (1)” là làm cho sự phát triển vật chất tăng nhanh một cách có lợi nhất,
sau khi điều kiện ý thức về ý nghĩa “có tâm (0)” của các tâm (1) đã thỏa.
Bản chất của mọi Ý Nghĩa là đều có gốc từ ngôn ngữ, cảm xúc hay cái tâm sống
của mỗi người mà ra. Biết rằng tâm (1) có gốc là “vật chất”, và tâm (0) có gốc
rèn luyện từ quá trình nhận thức tổng hợp mà thành, nên trước hết nó có gốc là
“ngôn ngữ”. Vì vậy, nếu mọi sự tồn tại của con người đều đặt trên nền là ngôn
ngữ, thì ắt sẽ phải chịu sự chi phối của tâm (0), phương tiện hữu hiệu để con
người làm chủ mọi ý nghĩa tồn tại của vật chất.
Như vậy, nếu xã hội lấy (0) làm gốc, thì mọi (1) sẽ có nền ý nghĩa ít nhiều là
(0), như một điểm tựa mới cho sự sống và phát triển. Vấn đề là làm sao rèn
luyện các tâm (1) phát triển thành thói quen trên nền của phần tâm (0) mới được
cấy vào – thay vì (1) hay quen phát triển trên chính nó từ xưa đến nay –, trong
quá trình trưởng thành của mỗi con người trong môi trường xã hội lấy (O) làm
gốc như trên.
Trong bất kỳ một tập hợp cộng đồng người nào cũng đều có những người biết cách
hiểu và có khả năng giúp người khác theo nguyện vọng của người đó đang cần, mà
không cần dùng đến bạo lực. Nói cách khác, đó là những người biết say mê hoàn
thành công việc của mình với mọi người, bằng tất cả trách nhiệm và sự tận tâm.
Tuy nhiên, khả năng đó chỉ có hiệu quả hay có giá trị trong một chừng mực nhất
định. Nếu mở rộng phạm vi trách nhiệm và quan hệ đó ra, thì những người đó có
nguy cơ rơi vào hai hậu quả: không hoàn thành trách nhiệm và bị mất thói quen
“tận tâm”, hay bị rơi vào một trong hai khả năng đó. Nói cách khác, một sự thay
đổi môi trường hay tính chất công việc như thăng chức một cách tùy tiện, thiếu
cơ sở tìm hiểu và giúp rèn luyện hợp lý cái tâm của người đó, thì dễ đồng nghĩa
với sự phiêu lưu làm hỏng nhân cách của những người đó một cách vô tình.
Thường những thất bại trên rơi vào các nhiệm vụ mang ít tính chất chuyên môn vật
chất mà nặng về quan hệ con người, hay nặng về trách nhiệm xây dựng các quan hệ
con người nói chung. Các thất bại trên còn có thể qui về nguyên nhân: sự nổ lực
của một cá nhân hay của một nhóm người tích cực là vẫn chưa đủ, mà cần có sự nổ
lực chung của mọi người để tạo thành một hợp sức một cách hữu hiệu và khoa học,
thì vấn đề mới mong đạt được kết quả như ý.
Để thống nhất sự nổ lực của tất cả mọi người trong một cuộc chiến tranh, thường
là không khó lắm, vì kẻ thù đang ở ngay trước mũi mọi người. Nhưng trong hòa
bình, sự ham muốn của mỗi người có thể luôn là mầm gây chia rẽ giữa mọi người
với nhau, cho dù họ đang sống trong cùng một môi trường và cũng có thể rất quen
thuộc nhau. Nên trong thời bình, việc tạo được sự đồng tâm trong sự sống đối
với một nhóm nhỏ đã khó; nay muốn tạo được sự thống nhất trong mọi người thì
vấn đề ắt sẽ nhiều lần khó hơn. Lịch sử loài người phải chăng đang chờ đợi
những giải pháp hiệu quả, sao cho mọi người đều có thể đoàn kết, đồng tâm hợp sức
xây dựng một môi trường sống riêng và chung được hài hòa và hợp lý, mà vẫn
không phải dùng đến bạo lực trong thời bình?
Vậy phải chăng đã đến lúc, con người không thể nghĩ đơn giản: các quan hệ con
người sẽ trở nên hoàn thiện chỉ thông qua sự giới thiệu các giá trị hình thức kiểu
mẫu về các tấm gương đạo đức trong sáng và lý tưởng, rồi đòi hỏi sự chuyển biến
nhiệt tình, tích cực một chiều của mọi người, v.v...; mà chúng cần phải được
nâng lên trở thành một lĩnh vực khoa học chuyên môn, của bài toán về các vấn đề
quan hệ giữa con người với nhau một cách toàn diện.
“Khoa học quan hệ con người” được hình thành trên nền của cái tâm thiện sẵn có
trong mỗi con người. Từ cái tâm thiện đó, khoa học làm sao lý giải chúng ra
thành một thứ ngôn ngữ chung, sao cho mọi người đều có thể định hướng thống
nhất được mọi Hành Động khác nhau mà không phải dùng đến bạo lực với nhau. Đó
là thứ ngôn ngữ có nhiệm vụ lý giải: “ý nghĩa của các Hành Động của con người
đối với sự sống là gì”, một cách thống nhất, khoa học và có lợi nhất cho sự
sống con người và xã hội nói chung.
Trong thực tế cuộc sống ngẫu nhiên, bất kỳ xã hội nào cũng có không ít người có
“cái tâm”, trong lý giải về các ý nghĩa của các Hành Động của con người một
cách trôi chảy. Tuy nhiên, đó chỉ mới là những khả năng lý giải qua các tích
lũy kinh nghiệm một cách tự phát, thiếu cơ sở khoa học vững chắc, nên phạm vi
áp dụng hiệu quả của nó cũng còn mang nhiều tính ngẫu nhiên và thất thường.
Như vậy, chỉ cần điều chỉnh một số quan điểm nhận thức trên lại, thì xã hội
cũng sẽ có thể có ngay một đội ngũ đông đảo những nhà lý giải chuyên môn, đủ
khả năng làm chủ một mô hình phát triển theo định hướng quan hệ kiểu mới, mà
trong đó, con người không cần phải dùng đến bạo lực như một đòn bẩy của sự phát
triển nữa.
Như chúng ta đã biết, để giải quyết hiệu quả các nội dung yêu cầu trên, thì
ngôn ngữ A sẽ như là một công cụ tích cực được giới thiệu để mọi người cùng
tham khảo, trong mục tiêu xây dựng một chuyên ngành khoa học về quan hệ con
người với nhau.
2. ĐIỀU CHỈNH QUAN ĐIỂM SỐNG
Đã bước vào cuộc sống, thì ai cũng có riêng cho mình một quan điểm sống. Mỗi
quan điểm sống ấy tương xứng với một sự tự ái hay một sự tự trọng nhất định. Ví
như:
“Miếng ăn là miếng tồi tàn,
Mất ăn một miếng lộn gan lên đầu”.
để rồi sau đó: “No mất ngon, giận mất khôn.”.v.v...
Trong thời đại ngày nay, phải chăng trong mỗi con người đều có một sự bất an nhất
định; ít hay nhiều là tùy khả năng kềm chế, khắc phục trước những bất an đó của
mỗi người. Thường trong cuộc sống, sự bất công và vô lý do người này áp đặt lên
quyền lợi của người kia, là một vấn đề gây không ít trăn trở cho những người
đang bị yếu thế kia; và đó cũng sẽ là những nguyên nhân cơ bản đầu tiên, để gây
ra thành những bất an và thù hận giữa con người với nhau.
Vì sao con người phải đối xử bất công và vô lý với nhau? Câu trả lời sẽ là vô
số lý do. Nhưng có khi lý do chỉ là vì con người cũng không biết vì sao phải
như thế, mặc dù có khi thật tình con người cũng không muốn nó xảy ra như thế!?
Chúng ta gọi người có trình độ quan điểm sống cao, là người ít gây ra sự bất
công nhất cho mọi người, hay là người đem lại sự công bằng và hợp lý nhiều nhất
cho mọi người. Người có trình độ sống thấp, là người gây ra nhiều bất công vô
lý hay sự công phẩn cho nhiều người, hay cho ít người nhưng với tính chất trầm
trọng.
Mỗi trình độ sống được biểu hiện, thông qua khả năng nhận thức và lý giải, về ý
nghĩa của các cách giải quyết các vấn đề của sự sống đang đặt ra đối với mỗi
người. Người lý giải sai nhiều thì gây hậu quả nhiều, người lý giải đúng nhiều
thì hậu quả gây ra sẽ càng không đáng kể.
Như vậy, điều chỉnh quan điểm sống là bổ sung thêm khả năng lý giải về các hiện
tượng quan hệ giữa con người với nhau, để sao cho các kết quả giải quyết ít gây
bất công và vô lý nhất. Nếu vậy, vấn đề là phải biết phân loại trình độ sống
của mỗi người, để có thể trang bị thêm nhận thức vừa với khả năng của từng
người đó, thì kết quả thu được mới cao. Giống như người đang học lớp hai mà đòi
học chương trình lớp mười, thì cái dốt chỉ càng tăng chứ không ích lợi gì. Mọi
sự phát triển đều cần phải theo các trình tự hợp lý của nó, không thể chủ quan
tùy tiện được.
Trong thời đại ngày nay, khi vấn đề định nghĩa về trình độ sống của mỗi người
chưa được khoa học xác định một cách khách quan, cụ thể và thống nhất, thì con
người phải tự phong trình độ sống cho nhau tùy theo thói quen nhận thức của mỗi
người, về thế nào là một người có trình độ sống cao hay thấp trong mỗi cộng
đồng.
Khi được phong cho một trình độ sống, thì vô hình trung người đó hay số người
đó ngầm hiểu, nó tương ứng với một quyền sống nhất định. Nhưng cũng có khi, xã
hội có nhiều người nhận quyền mà khả năng sống thực tế của họ lại không cân xứng
với cái quyền mà họ đang có. Do đó, để bảo vệ và củng cố cái “hư quyền” đang
có, họ sẽ phải... “khuyến khích” mọi người hãy tập thói quen sống: chỉ và nên
nghe theo lệnh một chiều, đừng quá thắc mắc hay còn đòi hỏi minh giải quanh co,
v.v...; vì như thế e rằng sẽ đe dọa sự tồn tại uy tín của cái “hư quyền” mà họ
đang nắm giữ.
Tuy nhiên, do bản chất con người sinh ra chỉ có thể nghe và chấp nhận một quyền
áp đặt duy nhất: đó là sự áp đặt uy quyền của tạo hóa. Còn lại mọi uy quyền áp
đặt giả tạo khác, dưới mọi hình thức, đều sẽ gây ra những phản ứng ngấm ngầm,
hay công khai khi có điều kiện; mà cuối cùng, chúng sẽ tạo thành những biến cố
nhằm xóa bỏ “các hư quyền” kia, đang gây bất lợi cho sự sống công bằng giữa con
người với nhau.
Như vậy, có quyền phải đi kèm với một trình độ sống tương đương trong thực tế,
thì mọi biểu hiện quan hệ con người với nhau mới không bị gây trở ngại bởi các
phản ứng chống đối bất ngờ kia. Và chỉ như thế, thì sự sống bình yên và hạnh
phúc của con người và xã hội mới trở nên hiện thực và lâu bền.
Con đường nâng cao trình độ sống của con người, cũng là con đường phát triển sự
nghiệp mở rộng thông tin bình đẳng hai chiều cho tất cả mọi người với nhau, không
giới hạn đối tượng, không giới hạn nội dung và hình thức, nhưng phải theo một
qui trình thứ tự công khai hợp lý và khoa học. Tất cả là để sao cho mọi người
đều có thể phát triển trình độ sống đến chân lý, trong một trật tự ôn hòa, bình
đẳng và tôn trọng lẫn nhau, vì mục tiêu Hạnh Phúc của mỗi người trong mọi
người.
Để thực hiện thành công sự nghiệp mở rộng thông tin trên, con người có thể đã
thử nghiệm bằng nhiều loại ngôn ngữ thông tin khác nhau; nhưng ở đây, chúng ta
được giới thiệu ngôn ngữ A như một phương tiện hiệu quả nhất.
Vốn sống của mỗi con người là một kho hiểu biết lẫn lộn, từ các nguồn thông tin
đa dạng. Nó đang không ngừng vận động trong nội tâm của mỗi người, bên cạnh sự vận
động đa dạng và phức tạp khác ngoài xã hội. Việc thẩm định giá trị của các kho
tàng vốn sống đa dạng trên, là tùy vào sự phát triển cái tâm thiện của con
người; để qua đó, mỗi người có thể tự khám phá ra bản chất nội tâm của mình đối
với sự sống, cũng như có thể dễ dàng làm chủ tương lai và ý nghĩa của sự sống
đời mình.
Vốn nhận thức của mỗi người được biểu hiện ra ngoài, thông qua khả năng tự lý
giải của mỗi người về các Hành Động của mình, từ gốc độ nhỏ nhất đến to lớn
nhất trong quan hệ với mọi người. Muốn đánh giá khả năng lý giải đó, con người
phải thông qua sự đánh giá công khai của mọi người theo phạm vi liên quan, trên
cả hai gốc độ tình và lý, trên cả hai phương diện thời gian và không gian; để
cuối cùng có thể kết luận chân giá trị của một lý giải hay của một kết quả Hành
Động nào đó của mỗi người, so với thực tế cuộc sống, là gì.
Như vậy, để đánh giá vốn nhận thức của mỗi người, điều đó có khi là một việc
làm rất nan giải; hay phải chăng, con người chỉ có thể đánh giá được chúng theo
tỉ lệ gần đúng nhiều hay ít, chứ khó có thể đạt được một sự đánh giá với kết
quả chính xác tuyệt đối.
Vì thế, trước một thực tế mà mọi giá trị lý giải về các hiện tượng quan hệ giữa
con người với nhau chỉ có thể đạt được ở mức tương đối, thì việc yêu cầu hình
thành ra một lý giải chân lý để làm chuẩn cho mọi lý giải khác, phải chăng là
một điều không tưởng?
Tuy nhiên, nếu sự sống mà thiếu chân lý thì mọi lý lẽ sẽ có giá trị ra sao? Cái
sai sẽ lẫn vào cái đúng, cái ác sẽ che mắt cái thiện, v.v... Do đó, để sự sống
được công bằng và tốt đẹp, con người phải cố tìm ra cách chứng minh sự hiện hữu
của chân lý trong sự sống thực tế, ở mức độ có thể chấp nhận được.
Từ quá trình tìm tòi, ngôn ngữ A đi đến kết luận: chân lý không bao giờ có sẵn,
chân lý cũng không phải do một người tạo ra, chân lý cũng không phải do đa số
người tạo ra, mà chân lý phải do mọi người cùng biết cách tạo ra cho phù hợp
với yêu cầu của mỗi thời điểm cần có nó. Trong đó, điều kiện “mọi người” là có
thể được thỏa, điều kiện còn lại là “cách tạo ra” thì ở đây cách của ngôn ngữ A
được chọn.
Cách đặt vấn đề trên sẽ thành là: khi xuất hiện một sự lý giải của con người về
các hiện tượng quan hệ, thì ngôn ngữ A cũng sẽ đưa ra cách lý giải của riêng
mình trên cùng một vấn đề, để mọi người được rộng đường chọn lựa. Nếu trong quan
hệ con người với nhau có bao nhiêu vấn đề cần lý giải, thì ngôn ngữ A cũng sẽ
phải có ngần ấy lời giải để giới thiệu.
Hay tóm lại, ngôn ngữ A sẽ từng bước trở thành người bạn đồng hành hữu ích, mỗi
khi con người còn thấy khó vì vấn đề quan hệ với nhau.
3. VẤN ĐỀ CỦA THỜI ĐẠI
Để hiểu các vấn đề đương đại là một việc làm không dễ! Không phải nó không dễ
vì nó quá khó, nhưng vì bất kỳ nơi đâu cũng có những uy quyền của những thói
quen nhất định, đã cản trở con người thực hiện ý định đó.
Thời đại văn minh ngày nay là thời đại phát triển khả năng chủ động của con người,
trước sự chi phối của các quyền lực của thế giới tự nhiên. Trong số những vấn
đề khó khăn đã làm cản trở quá trình phát triển khả năng chủ động đó, có phần
do tự con người gây ra. Khi chính con người tạo ra khó khăn, để rồi cũng chính
con người phải tự tìm cách tháo gỡ những khó khăn đó, nên tất yếu sẽ phải:
“không dễ gì có sức người nào có thể vượt qua được các rào cản đó, để có thể
hiểu ra hết các vấn đề đang còn bị cản trở bởi thời đại là bao gồm những ẩn số
gì”.
Nhưng thật ra sự khó khăn trên cũng là một trong các quyền lực thiên nhiên, mà
con người đang cố phát triển khả năng để chiến thắng nó, trong đó có quyền lực
của chính “CON NGƯỜI”. Vì thế, trước xu thế phát triển hiệu quả của các khả năng
làm chủ thế giới tự nhiên xung quanh, thì con người sẽ từng bước tìm ra khả
năng để làm chủ hiện tượng tự nhiên “CON NGƯỜI”.
Trong thời đại ngày nay, phần lớn các xã hội đang xây dựng cơ chế tập trung quyền
lực hay cơ chế tập trung dân chủ, trên cơ sở của ba cơ quan quyền lực chính:
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong mô hình tổ chức đó, thường người đóng vai
trò hành pháp sẽ dễ cảm thấy an tâm để làm tròn nhiệm vụ quan trọng nhất của
mình trong số ba cơ quan trên: nhiệm vụ chăm lo đời sống của mọi người trong xã
hội nói chung.
Từ ba cơ quan chính đó, con người có thể suy ra nhiều hình thức cơ chế hoạt
động khác nhau cho mỗi xã hội, nhưng cùng giống nhau trên một nguyên tắc: “điều
gì đã biến thành luật, thì tất cả mọi người đều phải thi hành, không được chống
luật!”.
Bên cạnh luật, bao giờ cũng có một bộ máy quyền lực để bảo vệ luật, hay để bảo
đảm sự an ninh trật tự của một xã hội nhất định. Và đầu mối của những nguyên
nhân gây khó khăn và cản trở đến sự sống và sự phát triển hạnh phúc của con
người, có thể được phát hiện trước tiên và trực tiếp là từ đây.
Ngày nay, không có bất kỳ xã hội nào muốn bảo vệ luật mà không dùng đến phương
tiện bạo lực để áp đặt và cưỡng chế đối với con người. Nếu dựa trên nguyên lý
vận động thống nhất, thì một số người phạm luật là mọi người đều có liên quan
phạm luật. Vậy, để sửa sự vi phạm luật của một thiểu số người, thật ra, tức là
phải diệt trừ nguồn gốc vi phạm luật có mầm phát sinh từ ở nơi mọi người nói
chung. Nhưng điều đó ngày nay có thể còn là điều cấm kỵ, vì chưa được công nhận
trong thực tế dư luận rộng rãi.
Thực tế đời sống xã hội cho thấy rằng, khi luật không ngừng bị vi phạm, thì con
người sẽ không ngừng tăng cường thêm luật để áp đặt lên nhau. Cuối cùng, sự
sống con người nhìn qua thấy như dễ sống; nhưng tình thực gần như nơi đâu cũng
bị căng đầy các luật cấm, mà người yếu sức sẽ khó lòng tránh được các bẫy luật,
trong quá trình đi tìm sự sống và sự phát triển của đời họ.
Điều trên không có nghĩa, con người đang thiếu sự nhiệt tình và tích cực muốn giúp
nhau để có được một mức sống tốt đẹp hơn. Nhưng như người ta vẫn thường nói
“lực bất tòng tâm”; càng cố gắng giúp nhau thì càng như có nhiều luật cấm hơn,
và đời sống con người như càng thêm phức tạp hơn và khó sống hơn!
Tất cả các bế tắc của những khó khăn trên, cuối cùng tích tụ vào trong đời sống
tâm lý của mỗi con người, để tạo thành một môi trường tinh thần bất ổn của con
người và xã hội. Trong môi trường tinh thần bất ổn đó, người ta thấy nổi lên
một số nạn nhân phải gánh chịu những hậu quả trực tiếp và nặng nề nhất. Những
biểu hiện của nó có thể kể như là: sự đau khổ, buồn chán, các stress, v.v...
Tất cả nguyên nhân chỉ vì con người muốn “cấm” cộng với quyền dùng “bạo lực”, mà
không “cấm” cộng với sự mở rộng hệ thống “giải đáp” mọi thắc mắc, mọi bất đồng
ý giữa con người với nhau một cách hợp lý, tự giác và phi bạo lực.
Người ta thường nói “luật nói chung là không sai”, vì chúng đã được nghiên cứu
kỹ lưỡng từ các đại biểu dân cử tốt nhất của xã hội. Hơn nữa, những người dân
bình thường đâu có đủ điều kiện, theo luật định, để có quyền được tranh luận và
quyết định về luật này hay luật nọ, mà tất cả phải nhờ thông qua những người
đại diện đã được chọn lọc kia, để đấu tranh và bảo vệ thay cho những quyền lợi
riêng tư của mọi người dân bình thường còn lại.
Nhưng có điều là, các nhà đại diện dân cử tranh luận thế nào mà luật ra bao
nhiêu, đời sống người dân vẫn còn khốn khó trên nhiều lẽ khác nhau, nếu không ở
dạng này cũng ở dạng khác! Cuối cùng con người cũng có thể lý giải theo cách:
“nơi đâu cũng vậy, nơi đây như thế có khi đã là hay! Biết đâu chờ đến tương lai
sẽ tốt hơn chăng? Bởi hoàn cảnh thế thì mỗi nơi ắt thời phải thế, biết sao là
tốt hơn?”!?
Cuối cùng, cái chốt của mọi khó khăn và bế tắc trong đời sống xã hội và con người,
được qui về nguyên nhân: người này có quyền, còn người kia thì không có quyền
nêu nguyện vọng trực tiếp, hay tranh luận trực tiếp về những điều luật mà họ
cảm thấy chưa đồng ý.
Như chúng ta đã biết, bản chất sự sống con người được cấu thành bởi một hệ
thống các thói quen ham muốn. Hệ thống đó vô cùng đa dạng tùy theo hoàn cảnh
sinh tồn của mỗi người. Từ hệ thống đó, nó cấu thành ra các nguyện vọng, cảm
xúc hay các Lý Lẽ Riêng của mỗi người. Nếu giờ đây không cho họ có quyền nêu
các ý riêng để tranh luận trực tiếp, thì khác nào sự sống của con người chỉ có
tính dân chủ hình thức hay dân chủ cho thiểu số đại diện mà thôi vậy!
Vì vậy, cách dân chủ như thế sẽ khó đạt đến hiệu quả triệt để như thực tế đã
chứng minh. Và đương nhiên, hậu quả không chỉ gây ra trực tiếp đối với những
nạn nhân của các luật đó, mà tất cả mọi người đều phải gánh lấy hậu quả đó. Do
đó, trong bất kỳ thời đại xã hội nào, con người cũng đều có hoài bão về một sự
cải thiện đời sống con người và xã hội được tốt hơn, trong sự “công bằng, tự do
và bác ái” hơn. Nhưng...
Nhưng mặt khác, như đã chứng minh, bản chất sự sống con người cũng là một sự kết
hợp của hai yêu cầu trái ngược nhau: đó là quyền được “tự do” và quyền được “nô
lệ”. Sự mâu thuẫn bẩm sinh đó chỉ có thể giải quyết tối ưu bằng sự phát triển
đời sống tinh thần của con người về điểm (0). Do (0) là tâm điểm của vạn vật,
nên khi con người tìm thấy (0) cũng tức là tìm thấy khả năng lý giải ý nghĩa
vận động của vạn vật. Tức là suy ra được các nguyên lý vận động của thế giới
loài người vậy.
Nếu gọi “ý muốn Hành Động” của con người là “Vật Chất”, thì “ý nghĩa” của ý
muốn đó là “Tinh Thần”. Nếu gọi “ý muốn Hành Động” của con người như là “tốc độ
chạy” của xe, thì “ý nghĩa của ý muốn Hành Động” sẽ như là “cái phanh” của xe.
Hay chúng ta có thể tóm tắt:
Ý NGHĨA CỦA HÀNH ĐỘNG = CÁI PHANH CỦA XE
Ý MUỐN CỦA HÀNH ĐỘNG = TỐC ĐỘ CỦA XE
Từ lâu, do con người chưa chứng minh được vai trò của (0) trong đời sống văn
minh hiện đại, nên con người cảm thấy rất khó khăn để kết hợp một cách thống
nhất giữa một bên là quyền TỰ DO của Ý MUỐN TỐC ĐỘ, và bên kia là quyền NÔ LỆ
của Ý MUỐN PHANH LẠI, trong các quan hệ con người với nhau. Vì vậy, nó đã làm
cho sự sống con người và xã hội như bị lạc lối và bị cắt vụn ra một cách vô
hình. Hay con người cũng khó hình dung ra một phát họa hoàn chỉnh và đúng nghĩa
về sự sống của con người, khi mà xã hội còn bao người chưa tìm ra được đầu mối
cho sự kết nối thống nhất đó.
Chúng ta biết rằng “tốc độ ý muốn” của mỗi người là vô chừng, nó tùy vào sự cảm
hứng của mỗi người trước môi trường sống. Do đó, khi con người vô tình ỷ lại,
muốn tách “phanh xe” ra cho một người giữ còn người kia chuyên lo chạy “tốc
độ”, thì... chỉ có trời mới biết thắng sao cho kịp lúc một khi xe đã tăng tốc
lao đến... vực thẳm của cuộc đời! Nên cách tốt nhất chỉ có thể là: “AI CHẠY THÌ
NGƯỜI ĐÓ PHẢI CÓ PHANH KÈM THEO”. Chỉ như thế, mỗi người mới có thể làm chủ
được “tốc độ” của mình trong môi trường sống, mà nơi đó các luật lệ văn bản gần
như không bao giờ theo kịp những biến động khôn lường của nó.
“Cái phanh” hay “cái thắng” của “ý nghĩa Hành Động”, không có gì khác hơn là
“vốn nhận thức của mỗi người về cuộc sống”. Nếu vốn nhận thức đủ, thì không ai
dại gì biết điện giựt, dao bén, nước sôi, vi trùng bệnh tật, v.v... mà lại muốn
dây vào để gánh họa vào thân.
Bản chất của lệnh cấm bằng bạo lực, không có gì khác hơn là sự biểu hiện thiếu
vốn nhận thức về các “Ý Muốn Hành Động” của con người; và khi đó, vốn lý giải
giữa con người với nhau thường chỉ mang nặng tính vô lý, độc đoán, phiến diện,
v.v... Với kiểu cách như thế, thì con người càng khó có thể hiểu và cảm thông
với nhau, để cuối cùng... “lời ai nấy nói, khổ ai nấy chịu và sai ai... nấy
làm!
Từ cấm bằng bạo lực, con người tất yếu sẽ có khuynh hướng muốn mọi người phải
“nghe” theo một chiều lý giải chủ quan. Trong khi thực tế, sự sống cũng chỉ có
một chiều, nhưng đó là “chiều thiên tạo” hay “chiều của khách quan”, mà chỉ có
sự phát triển “thiện tâm” đa chiều của mọi người, mới là tiền đề cơ bản nhất
cho sự khám phá ra chiều sống độc nhất thiên tạo đó. Đó mới chính là kim chỉ
nam thật sự cho sự tự giác phải chấp hành của tất cả mọi người.
Muốn như thế, mọi con người sinh ra đều phải được có quyền đề đạt nguyện vọng
và có quyền tranh luận công khai, trật tự, bình đẳng và không giới hạn tất cả những
gì cần cho mỗi người và cho chung xã hội. Đó là công việc dù phải tốn nhiều
công sức đến đâu, con người cũng nên bỏ công thực hiện cho thành công. Nếu
không, xã hội có bao nhiêu người, thì chỉ có một thiểu số người được đại diện
sống, còn lại bao nhiêu như phải nhờ người khác sống giùm! Nhưng tạo hóa sinh mọi
người ra để tự sống, chứ không ai muốn nhờ người khác sống giùm bao giờ! (?)
Tuy nhiên, như đã chứng minh, nếu con người vẫn tiếp tục dùng ngôn ngữ B để lý
giải sự sống với nhau, thì mãi mãi sự tranh luận vẫn quanh co vào cái trũng bạo
lực, để cuối cùng lối thoát vẫn bị che khuất.
Vì vậy, con đường phải chọn, phải chăng chỉ có thể bắt đầu từ ngôn ngữ A.
Vì nó sẽ giúp con người tiến vào cái trũng của sự tiêu diệt vĩnh viễn các quan
hệ mang tính bạo lực và bất công giữa con người với nhau. Nó sẽ tạo điều kiện
để mọi người được giải đáp công khai về mọi nội dung tranh luận, có lợi cho sự
sống và các quan hệ con người với nhau một cách công bằng và khoa học. Vì nếu
không, sự đồng nghĩa của “không giải đáp được” sẽ lại là bạo lực và bất ổn giữa
con người với nhau.
Bản chất sinh tồn của con người là tự giác hướng sự vận động của mình hòa vào
sự vận động thống nhất một chiều của tạo hóa. Do đó, yếu tố quyết định đối với con
người và xã hội, là khả năng giải đáp được mọi nhu cầu tranh luận của con
người; cũng tức là, cung cấp đủ nhận thức để con người có đủ khả năng tự giác
hòa vào cơ cấu của trật tự tự nhiên đó, mà không cần dùng đến một lượng ca lo
phản tác dụng nào của các công cụ bạo lực phi nhân tính.
Suy ra, một xã hội tương lai hoàn chỉnh là một xã hội mà trong đó không phải
người đứng đầu xã hội được chọn ra như một sự chọn lựa hên xuôi, may rủi theo
đa số; mà đó phải như là một nhà sư phạm tài ba, đủ khả năng vạch ra mọi sự cảm
thông giữa con người với nhau, mà không phải dùng đến phương tiện của bạo lực.
Khả năng đó không do bầu chọn mà thành. Nó tùy thuộc vào quá trình nghiên cứu,
rèn luyện về Tinh Thần của người đó phù hợp với xu hướng phát triển của toàn xã
hội; tức là phải trên cơ sở tôn trọng quyền phát triển tự do về nhận thức của
mọi người, mà người đứng đầu xã hội phải tác động sao cho cái ác không còn môi trường
để dung thân – thông qua các hình thức quan hệ bằng bạo lực –, mà điều đó khác
gì như lời tự thú của cái ác đang còn tồn tại bên trong của chính những người
đang đứng đầu xã hội đó.
Nếu sự tác động đó đúng, thì tất cả mọi người tất yếu sẽ phải tự giác hướng về
con đường đã vạch, không có bất kỳ biện pháp bạo lực nhân tạo nào có thể ngăn
cản được. Điều đó cũng đồng nghĩa như một sự bình chọn đầy lý tưởng của mọi người
đối với người đứng đầu xã hội vậy. Và, phải chăng, bởi mọi sự tồn tại của mọi
con người trên thế gian này đều đã là một hiện tượng vô cùng kỳ diệu và lý
tưởng, của sự cố gắng vận động một cách tối ưu của tạo hóa; nên ắt là sự sống
của xã hội loài người đến một lúc nào đó cũng phải đạt đến một mức sống lý
tưởng, như một điều đương nhiên vậy.
Tóm lại như người ta vẫn thường nói: “Muốn có một xã hội không còn bạo lực, thì
phải có những con người không bạo lực dẫn đường; Muốn có một xã hội Hạnh Phúc,
thì phải có những con người biết sống Hạnh Phúc dẫn đường”. Vậy muốn có một xã
hội phát triển đúng qui luật tiến hóa, thì phải có những con người biết lý giải
bằng cái tâm, từ nội dung đến hình thức, để có thể có đủ khả năng hiểu, cảm
thông và tổng hợp được mọi tâm khác nhau của mọi người, mà tạo thành một sự
phát triển thống nhất, tự giác, phi bạo lực và hợp qui luật. Nếu không, tất cả
mọi sự vận động vẫn phải lẩn quẩn như phải chơi trò cút bắt giả tạo; mà thực
chất không khác gì mỗi người đang cố bảo vệ các quyền lợi ưu thế mà mình đang
có, để lại quên đi bao nhiêu số phận con người còn đang phải sống dưới mức bình
thường, với bao bế tắc và đau khổ!
4. Ý NGHĨA CỦA SỨC SỐNG
Có một câu đố: “rằng vì cớ gì tạo hóa lại sinh ra loài người?”. Nếu như ai trả lời
được câu đố trên, ắt người đó là Ông Trời vậy.
Tuy nhiên, nếu xét phạm vi một gia đình, phạm vi của một cá nhân, thì có lẽ sẽ
hiểu được ông, bà, cha, mẹ sinh ra con cháu để làm gì. Mỗi con người được sinh
ra trên đời, trước tiên, đều phải “sống” như một trách nhiệm tự nhiên của “MỘT
CON NGƯỜI”.
Con người muốn sống, thì phải có “sức” để sống. Nếu may mắn con người được cho
ăn uống đầy đù, thì ắt là sẽ có sức để sống. Khi sức sống đã có nhiều, con
người phải sử dụng nó như thế nào đây; điều đó phải nhờ đến trí não của con
người giúp tìm ra câu trả lời cho hợp lý.
Mọi bộ não bình thường đều hiểu, việc trước hết là phải tái tạo lại lương thực
và các điều kiện sống cơ bản khác, nhằm duy trì sức sống được có liên tục. Con
người gọi đó là đi lao động sản xuất, đi làm việc hay đi làm, v.v... Nhưng đến
một lúc, nhờ sự thông minh của con người mà các máy móc, các tiến bộ khoa học
kỹ thuật, v.v..., đã giúp con người giải quyết hiệu quả các nhu cầu đời sống cơ
bản trên mà không cần phải tốn nhiều sức, không cần phải mọi người cùng “làm”.
Kết quả trên thật là quá tốt, một tin vui cho sức sống con người; vì giờ đây nó
đã được đảm bảo an toàn... Nhưng nhìn lại, con người không hiểu sao lòng lại
vẫn thấy ưu sầu; vì bấy giờ việc ăn uống không còn phải lo nữa, v.v..., thì
hiện tượng “thừa sức sống” cũng là một vấn đề, gây cho con người không kém phần
hoang mang lo nghĩ.
Người ta lại thấy rằng, con người đã dùng sức thừa đó để tìm tòi, nâng cao
trình độ sản xuất và khả năng hưởng thụ các tiện nghi Vật Chất đến mức mà con
người có thể nghĩ đến. Nhưng cũng lại đến một lúc, các tiện nghi đó như đã quá
đủ hay nó còn là quá dư thừa đối với một số người. Khi đó, số người trên lại
tiếp tục âu lo cho “tiền đồ” sử dụng các sức thừa đang có của họ vào mục đích gì
nữa đây?
Có người thấy thế mới trách: “sao không chịu lập gia đình, sao không tham gia
vào các công việc xã hội, vui chơi, giải trí, du lịch, âm nhạc, thể thao, văn
chương, hội họa, sân khấu, hay tiếp tục nâng cao trình độ học tập, sản xuất,
v.v... nhiều hơn nữa, cao hơn nữa v.v...”
Để trả lời cho vấn đề, chúng ta hãy chia sức sống con người ra thành hai phần:
phần Sức Sống Cơ Bản và phần sức sống Dư Thừa. Phần Sức Cơ Bản (hay Sức Sống Cơ
Bản), được dùng chủ yếu để tái tạo lại sức sống cơ bản cho con người, bằng nguồn
vật chất là chủ yếu. Phần Sức Dư Thừa (hay Sức Sống Dư Thừa), được dùng chủ yếu
theo tự do và sở thích; đây phải chăng chính là đối tượng mà từ lâu con người
đã thiếu nghiên cứu để hướng dẫn sử dụng nó một cách hợp lý, khoa học và hiệu
quả nhất. Vậy sự sai lầm trên có thể là nguyên nhân chính, đã gây ra mọi tai
họa trong quá trình tiến hóa của xã hội loài người.
Nguyên tắc sinh tồn của con người là sức sống phải được sử dụng tối đa, phù hợp
với số sức mà mỗi người có thể tái tạo ra được mỗi ngày. Để còn sống, mọi người
sinh ra cho đến khi chết đều bắt buộc phải dùng một lượng nhất định sức sống để
làm thành Sức Cơ Bản, như một bản năng vô điều kiện tự nhiên của mỗi con người
khi còn sinh tồn trên thế gian này. Sau đó, đến phần thừa còn lại của sức sống,
con người phải sử dụng ra sao đây? Điều đó, thật sự là một bài toán nan giải,
chứ không đơn giản như con người đã từng quen hiểu và dùng nó theo cách ngẫu
nhiên, tùy tiện như từ trước nay.
Chính cách hiểu tùy tiện trên có thể là một nguyên nhân vô hình đã hủy hoại dần
sức sống của con người. Một sức sống bị hủy hoại, là một sức sống không bình
thường. Sức sống không bình thường, là nguyên nhân tạo ra những kết quả sống
không bình thường. Những kết quả không bình thường đó, lại là nguyên nhân tạo
nên sự không bình thường trong đời sống tâm lý hay tinh thần của mỗi con người
đó nói riêng và của xã hội nói chung.
Sức Sống Dư Thừa thường được con người sử dụng theo hai cách: cách dùng theo
Cảm Hứng và cách dùng theo Mệnh Lệnh Áp Đặt. Tùy mỗi cách, mà nó dẫn con người
đến hai cực đại khác nhau của sự phát triển: “cực khoái cảm vui sướng” và “cực
đơn điệu chán ngấy”. Hay cách đầu tiên dẫn con người đến “CỰC VUI” và cách sau
đến “CỰC BUỒN”. Sự sống con người nếu bị thiếu một trong hai cực trên, cũng đều
sẽ rơi vào một thảm họa khó lường; vì giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ với
nhau.
Cực Vui dễ tạo nên sự phấn khích mất tự chủ, dễ gây thành những Hành Động bất
lợi cho sự sống con người nói chung. Cực Buồn dễ làm cho con người như bị triệt
tiêu mất sức sống, sinh ra các cảm xúc tiêu cực, bi quan, buồn chán, đau khổ,
v.v..., hay như muốn trốn khỏi những tăm tối sầu thảm mà Cực Buồn có thể gây ra
cho con người.
Thực tế sự sống cho thấy, con người thường cảm thấy sợ hãi trước sức hút của
hai cực trên. Trong đó, đáng sợ nhất là Cực Vui, vì nó lôi kéo đúng với sở
thích bản chất phát triển của con người hơn. Hay Cực Vui cũng là cực dễ làm cho
con người mất khả năng tự chủ nhanh nhất, là nguyên nhân có thể gây ra nhiều
hành động nguy hiểm trực tiếp cho con người nhất.
Đứng trước hai lực lôi kéo nghịch chiều trên, con người muốn tìm lời giải bằng
một cực dung hòa giữa chúng với nhau. Nhưng kết quả đến nay, con người như vẫn
còn thất bại trước yêu cầu tìm ra một lời giải dung hòa trước sự lôi kéo của
hai lực trên đối với Sức Dư Thừa của con người.
Nếu xét vấn đề từ góc độ ngôn ngữ A, sự thất bại trên là do rất nhiều nguyên
nhân. Trong số đó, phải chăng nguyên nhân chính là do trong hòa bình, trong các
xã hội người ta thường thấy không ít những người nhận đóng vai “hiệp sĩ”, nhưng
lại rất giống vai các “chúa tể” hơn. Bởi họ nghĩ, phải đem tài ra giúp người
đời bằng các mệnh lệnh, uy quyền, chủ quan, áp đặt, bạo lực, v.v..., với lý do
“bởi mọi người cần phải được như thế”(?!), hay bởi một sự nhân danh thiêng
liêng nào đó, v.v...
Cuối cùng, họ cũng đạt được một số thành công và cũng được nhiều người quý
trọng. Bấy giờ người ta lại lấy đó làm bằng để thay lời biện minh cho những
Hành Động “chúa tể” đã nêu trên, mà bỏ ngoài tai mọi sự phê phán bất đồng tình
khác. “Chúa tể cha” đạt được vinh dự trên, đến phiên “chúa tể con” cũng đạt
được như thế; đến “chúa tể cháu” v.v... cũng được kế thừa các đặc quyền trên, theo
một nguyên tắc khép kín và chặt chẽ như thế nào đó, mà các vị “chúa tể tổ tiên”
đã có khi tạo dựng nên nó bằng cả một quá trình bạo lực phức tạp.
Hình thức kế thừa trên, ngoài nguyên tắc “truyền ngôi” theo giòng máu, thì con
người còn dùng nhiều hình thức đa dạng khác. Tuy nhiên, điều quan trọng không
phải chỉ vấn đề ai sẽ lên ngôi “chúa tể”, mà còn là chuyện không ít người bị lây
căn bệnh “muốn được mọi người kính cẩn sùng bái mình như một vị ”chúa tể
nhỏ" vậy, nếu như may mắn họ có được một chút ưu thế nào đó so với người
khác.
Phải chăng đó là căn bệnh của thời đại, căn bệnh của thói quen độc đoán chủ
quan, của sự ham muốn quyền uy độc tôn để buộc mọi người phải thuần phục vô
điều kiện theo “mệnh lệnh” của mình, như một nguyên tắc thiêng liêng được thần thánh
hóa một cách tuyệt đối, bất khả tranh luận với mọi người còn đang bị dưới quyền
chi phối của các vị “chúa tể” kia.
Điều đó phải chăng là một căn bệnh vô cùng nguy hiểm và bất lợi cho con người;
vì nó sẽ làm suy yếu sức sống của con người một cách vô hình, bởi sự suy yếu
sức đề kháng của con người trước mọi sai trái, thiện ác mà không để lại một dấu
vết nào để con người có thể truy tìm ra được nguyên nhân từ đâu. Hay ngày nay,
nó có thể được qui thành căn bệnh do “Thói Quen” gây ra, hay chính xác hơn, đó
là căn bệnh do môi trường của ngôn ngữ B gây ra. Người chưa được làm “chúa tể”,
thì hy vọng sẽ có ngày đến phiên mình. Tất cả như đã thành một cuộc chơi lớn,
ai đóng vai trên, ai đóng vai dưới, tùy theo vị trí mà diễn vai cho tròn. Ai
không hoàn thành vai diễn, thì đừng trách luật chơi khắt khe đã không báo trước
điềm dữ!
Cuộc chơi lớn đó rất có hại cho sức người, mà trước mắt, tức thời, bao giờ cũng
đều có xảy ra không ít nạn nhân bị trừng phạt, sự sống bị khó khăn từ những tác
động trực tiếp của các luật chơi đó. Hay đơn giản hơn, tất cả họ là những người
đã bị loại ra khỏi cuộc chơi!
Nếu tất cả luật chơi đều do con người tạo ra, thì luật chơi đó hy vọng sẽ có
ngày cũng được sửa đổi bởi chính con người.
Giả thiết, ngôn ngữ A dung hòa được sự phối hợp của hai cực Vui và Buồn trên
lại thành một cực thống nhất, gọi là CỰC HẠNH PHÚC. Cực Hạnh Phúc không phải là
cực vui có hại, cũng không là cực quá buồn; mà là sự buồn vui hợp lý, vừa đủ để
mọi người thực hiện thành công một mục tiêu hữu ích: “sống để Hạnh Phúc chứ
không phải để đau khổ” cho mỗi đời người.
Để có thể định hướng cho mọi người tiến vào cực Hạnh Phúc, vấn đề cốt lõi là trang
bị cho mọi người khả năng phân biệt phải-trái, sai-đúng, thiện-ác hay đẹp-xấu;
thì xã hội, nếu có bao nhiêu vị “chúa tể” là sẽ có bấy nhiêu nạn nhân, trước
sức mạnh phán xét công minh của dư luận rộng rãi.
Để xây dựng khả năng phân biệt trên cho mọi người, chúng ta hãy định nghĩa: cực
Vui là mục đích sự sống, và cực Buồn là phương tiện để đạt đến mục đích cực Vui
kia. Vì con người muốn sống có Hạnh Phúc, thì phải có khả năng phân biệt lẽ
phải chân lý; vậy tức là, con người phải chịu khó bỏ ra ít nhiều khổ cực để rèn
luyện và học tập, thì mới có được khả năng đó. Đó cũng là chuyện thường tình,
vì có chịu “buồn” trước thì cái “vui” mới đến sau. Muốn “vui” mà không muốn
“buồn”, thì không “vui” nào lâu bền. Hay đó là sự tương quan giữa “phương tiện”
và “mục đích” vậy.
Bản chất của cực Vui là sự Ham Thích và Cảm Hứng, bản chất của cực Buồn là sự
Không Thích và Thoái Chí. Mọi con người sinh ra đều sẵn có từ bẩm sinh, sự “ham
thích” và “khả năng cảm hứng”. Những khả năng đó là những động cơ đầu tiên, để
kích thích con người tạo ra các Hành Động có những chủ đích nhất định, theo một
ý nghĩa vui sống hạnh phúc nhất định.
Nếu đạt được các chủ đích đó, thì sự ham thích và cảm hứng của con người sẽ
càng tăng và càng được phát triển lên thành “thói quen”. Thói quen đó càng phát
triển, thì con người càng ham hoạt động, ham hoàn thành các việc hữu ích đó, để
càng được có nhiều “cảm hứng vui sống” hơn, v.v...; và để cuối cùng, tạo thành
một thứ thói quen cảm xúc “vui sống ổn định và Hạnh Phúc” với chính mình cũng
như với mọi người.
Tuy nhiên, vấn đề sẽ trở nên khó khăn và phức tạp khi những ham muốn có thể đem
lại sự phát triển khả năng “cảm hứng vui sống” đó cho một đứa trẻ hay cho con
người nói chung, thì có khi lại là điều không cho phép bởi các “chúa tể”, bởi
những người có uy quyền hơn hay bởi môi trường sống xung quanh cá nhân đó tác
động.
Những sự không cho phép đó bao giờ cũng có biện pháp cuối cùng của nó, là các
“mệnh lệnh” bằng bạo lực để duy trì sự áp đặt chủ quan, bất kể đối tượng phải
thi hành có đồng ý hay không đồng ý. Và thực tế đã chứng minh từ ngàn năm, con
người, dù sống nơi nào trên trái đất, đều ít nhiều muốn chống lại các “mệnh
lệnh” đó, hoặc họ phải đồng ý về hình thức nhưng chống lại bên trong.
Bởi lịch sử đã chứng minh: đàng sau các mệnh lệnh áp đặt đó, bao giờ cũng có đi
kèm những tràng lý giải với các lý lẽ chứng minh về “lẽ phải” và “chân lý” đối
với sự sống con người. Để rồi bên cạnh đó, cũng luôn có sẵn một phương tiện bạo
lực hữu hình hoặc vô hình, chờ nghiêm trị đến sự an sinh và tính mạng của tất
cả ai có biểu hiện gây ra sự mất hiệu lực đối với các “mệnh lệnh” uy quyền kia.
Trong một tổ chức xã hội, nếu người trên dùng uy quyền “mệnh lệnh”, thì người
dưới cũng dùng uy quyền “mệnh lệnh” với nhau. Bản chất của uy quyền “mệnh lệnh”
là bạo lực. Bản chất của bạo lực là phá hoại Sức Sống Cơ Bản của con người. Bản
chất của Sức Sống Cơ Bản là đồng nghĩa với nhu cầu được bảo vệ nó bằng mọi giá,
như bảo vệ tính mạng của mỗi người vậy.
Do đó, khi con người dùng bạo lực bên cạnh các nội dung lẽ phải, thì giá trị
thành công của “mệnh lệnh” đó, có phải thật sự là nhờ các lẽ phải đó đúng hay
là nhờ sự sợ hãi của con người trước các bạo lực kia? Thường, con người đặt
quan trọng sự an toàn cho Sức Cơ Bản là trên hết, nên sẽ có khuynh hướng Hành
Động vì sợ bạo lực hơn là vì ý thức ra “lẽ phải”, cho dù nó đúng hay sai, chân
lý hay không chân lý.
Bản chất của “bạo lực mệnh lệnh” là chống lại cực Vui, chống lại sự “cảm hứng
vui sống” của con người. Do đó, khi Sức Dư Thừa của các “chúa tể” đã được dùng
chủ yếu vào các mệnh lệnh trên, thì tất yếu sẽ lôi theo sức sống của con người
và xã hội ngày càng rơi vào Cực Buồn, và phá hoại khả năng “tích lũy thói quen
vui sống tự nhiên” của con người. Vì vậy, kết quả là: xã hội và con người sẽ
hình thành nên thói quen của sự “lo âu, buồn chán, mất niềm tin, đau khổ,
v.v...”, và tâm như luôn bất an trong sự sống cũng như trong quan hệ với xã
hội.
Khi Hành Động của con người không được phát triển trên nền của sự Cảm Hứng, thì
họ sẽ có cảm giác như đang bị va chạm về sự tự ái và sự tự trọng cá nhân. Điều
đó dẫn đến ý nghĩa Hành Động của con người dần dần trở thành có mang tính chất
của sự uất giận và trả thù, như từ một sự dồn nén ức chế lâu ngày trước các
hiện tượng mệnh lệnh, bạo lực, v.v... trên kia. Tất cả chúng đều lần lượt trở thành
những nguyên nhân gián hay trực tiếp, tạo ra các biến cố bất ổn trong đời sống
con người và xã hội. Nếu các biến cố đó không được biểu hiện thành những Hành
Động chống đối công khai hay ngấm ngầm, thì có thể sẽ chuyển thành làm hỏng
nhân cách, sống thụ động, tiêu cực, hội chứng stress, các tội phạm, nghiện
rượu, xì ke, ma túy, cờ bạc, v.v... và tự vẫn nơi con người. Chúng ta gọi đó
như là những Cảm Hứng Tiêu Cực trước các tác động tiêu cực, gây ra bởi các quan
hệ sai lầm giữa con người với nhau.
Tất cả chúng là kết quả của một quá trình tác động lâu dài của các diễn biến từ
hữu hình đến vô hình vô cùng phức tạp; mà trong đó, nạn nhân cũng có thể đồng
thời vừa là bị cáo, bởi các Hành Động mang tính “lẽ phải không chân lý” ấy, nó
đang gần như hiện diện phổ biến ở khắp nơi, ở khắp mọi người!(?).
Lối thoát duy nhất, phải chăng là xã hội văn minh hiện đại cần tìm con đường
loại bỏ vĩnh viễn sự răn đe bạo lực trong quan hệ con người với nhau, trong khi
đang sống trong cùng môi trường thế gian như nhau. Phải chăng chỉ như thế, thì
một sức sống mới tốt đẹp hơn, hoàn thiện hơn cho loài người, mới có hy vọng
được hình thành.
Hay là lối thoát cho tất cả đều nằm ở quyết tâm của con người có muốn thành lập
một sân chơi mới hay không; mà trong đó, mọi người đều được bình đẳng với nhau,
cùng đều có quyền như nhau trong một mặt bằng tranh luận tự do không giới hạn
một cách có tổ chức. Để cuối cùng, mọi người đều có thể tìm thấy được sự thống
nhất của lẽ phải; nó được ví như là kim chỉ nam cho sự sống của con người. Và
như thế, cũng có nghĩa là những “mệnh lệnh” độc đoán uy quyền, sẽ dần trở thành
vô tác dụng đối với mọi người. Hay đó cũng là tiền đề cho sự hình thành một mô
hình tổ chức tối ưu của Bộ Máy Nhận Thức lý tưởng; nó sẽ có đủ khả năng đáp ứng
mọi nhu cầu sống phát triển và Hạnh Phúc của mọi con người trong hiện tại và cả
trong tương lai mãi mãi, trong một môi trường của các Lẽ Phải Hạnh Phúc phi bạo
lực.
5. LUẬT CỦA SÂN CHƠI MỚI
Mọi con người sinh ra đều có quyền được học tập và rèn luyện, để có đủ khả năng
làm chủ cuộc sống và tương lai mà họ sẽ phải trải qua trong đời. Một sự sống
tương lai tốt đẹp là một sự sống, mà trong đó con người được phát huy hết tất
cả sức sống bằng mọi Cảm Hứng Tích Cực nhất của mình.
Bản chất của sự phát triển “cảm hứng sống tích cực”, là nó không thể được hình
thành từ những biện pháp “mệnh lệnh, răn đe bạo lực” bởi con người; mà phải
bằng sự phát triển khả năng GIÁC NGỘ về Chân Lý Sống nơi mỗi con người, một
cách tự nhiên, tự nguyện và tự giác.
Sự Giác Ngộ Chân Lý Sống của mỗi con người chỉ được hình thành và phát triển,
khi người đó có được một khả năng hiểu biết đủ để lý giải một cách toàn diện
hết tất cả, các hiện tượng tồn tại xung quanh mình một cách khoa học, công khai,
bình đẳng, hợp lý, thống nhất và không bị áp đặt chủ quan từ phía các tác động
tiêu cực trong các quan hệ con người với nhau.
Điều đó có nghĩa, mỗi con người tùy vị trí sinh tồn khách quan của mình trong cộng
đồng, mà phải tự xác định cho mình hai hướng hình thành Cảm Hứng Sống chính:
một là hướng “nghề nghiệp” để tái tạo lại Sức Sống Cơ Bản; hai là hướng “ý
nghĩa của nghề nghiệp đó” để xây dựng Sức Sống Dư Thừa được phát triển theo
hướng Cảm Hứng Vui Sống hay Cảm Hứng Tích Cực, vì một cuộc sống phát triển tốt
đẹp và Hạnh Phúc.
Ví dụ, người nông dân có “hứng thú nghề nghiệp” của mình là đất đai, thời tiết,
giống cây trồng, sức cày kéo, v.v...; và “hứng thú của ý nghĩa nghề nghiệp” đó
là trồng trọt không phải đơn giản chỉ nhằm để bán không, mà còn có ý nghĩa vì
tình cảm muốn đem lại sự hạnh phúc cho mọi người về mặt lương thực được ngon,
tốt và rẻ hơn. Như thế, người nông dân đang đầu tư làm giàu trên cả hai mặt của
mục đích sự sống, đó là mặt vật chất và mặt tinh thần.
Đối với các ngành nghề, công, thương, sĩ, dịch vụ, v.v... khác, thì mỗi người
cũng có thể chia sự cảm hứng của mình thành ra hai hướng như trên. Khả năng làm
giàu về vật chất của mỗi người sẽ tùy thuộc vào số lượng sản phẩm vật chất do
họ tạo ra, có giá trị như thế nào trên thương trường mua, bán. Khả năng làm
giàu về tinh thần của mỗi người sẽ tùy thuộc vào thái độ, phong cách, tình cảm,
trách nhiệm, uy tín, v.v... của người đó trong quá trình tạo ra số sản phẩm đó
cho đến tay người tiêu dùng, là như thế nào. Chúng có được thực hiện bằng tất
cả cái tâm hay bằng tất cả tấm lòng của một người có ý thức trách nhiệm, muốn
đem lại sản phẩm tốt nhất và hợp lý nhất cho những người tiêu dùng hay không.
Từ lâu con người thường quen chú ý khía cạnh làm giàu vật chất thông qua số
tiền lời thu được, mà ít chú ý đến các nhận thức về thái độ mà mình đang biểu
hiện trong quá trình sản xuất hay mua bán đó, có ý nghĩa như thế nào với người
mua. Hay có chú ý đến chúng, nhưng chỉ nhằm tạo vỏ hình thức bên ngoài để nhắm
đến cái lợi trong kinh doanh hơn là xuất phát từ cái tâm, muốn cùng vì cái lợi
cho cả hai bên. Đó chính là nguyên nhân đã làm nghèo đi đời sống tinh thần của
người bán, một cách vô hình khi nào không hay!
Đời sống tinh thần nghèo sẽ biến con người trở nên ác dần, nhân cách, nhân phẩm
cũng giảm dần, v.v..., dẫn đến con người mất khả năng hưởng thụ đời sống hạnh phúc
tinh thần. Với kiểu cách làm ăn gian dối, thái độ trịch thượng, hách dịch, phạm
pháp, phe cánh, thờ ơ, v.v..., nếu gặp may thì họ cũng sẽ có thể mau làm giàu
về vật chất, nhưng bù lại sẽ bị thiệt hại về giá trị tinh thần. Nó mãi mài sẽ
tạo nên một cảm giác như bị thiếu hụt về ý nghĩa cuộc sống hay khả năng cảm thụ
về Hạnh Phúc đời người một cách trọn vẹn, nơi người đã phạm sai lầm trong ý
thức về ý nghĩa của các việc làm của mình.
Để giải quyết thất bại trên, con người đã bỏ không ít tiền của để quan tâm đến việc
thờ cúng, v.v... Nhưng tất cả nếu cũng theo cách hám lợi vật chất đơn thuần vì
riêng tư, v.v...; thiếu mất sự khơi dậy cái tâm bên trong, thì kết quả sẽ vẫn
có hại hơn là có lợi. Nếu đã đi chùa hoặc đi nhà thờ bằng cả cái tâm của mình;
vậy thì, con người cũng nên đưa thêm cái tâm đó vào trong cái nghề nghiệp kiếm
cơm hằng ngày, thì ắt là giá trị lợi ích sẽ tăng lên cụ thể hơn trong cuộc sống
thực tế vậy.
Tuy nhiên, trong cuộc sống đời thường ngoài việc làm của nghề nghiệp chính ra,
mọi người đều phải có những giờ giấc sinh hoạt gia đình, sinh hoạt riêng, quan
hệ đối thoại với nội tâm, quan hệ với bạn bè, sinh hoạt giải trí, v.v...; gọi
chung là những Sinh Hoạt Ngoài Giờ, hay những quan hệ sinh hoạt toàn diện ngoài
các Sinh Hoạt Nghề Nghiệp đã nêu ở phần trên.
Chính trong các Sinh Hoạt Ngoài Giờ đó là môi trường có ảnh hưởng không nhỏ đối
với đời sống tinh thần của mỗi người. Bởi đó là thời gian mà đối tượng tiếp xúc
của con người không còn là các công việc, thường mang nặng tính vật chất vô tri
nữa, mà chủ yếu là các quan hệ giữa Con Người với Con Người, với các đặc tính
về Nhận Thức và Cảm Xúc phức tạp, mà chỉ con người với nhau mới có.
Đối với công việc vật chất, con người đối diện với nó xấu hay tốt có thể không
ảnh hưởng gì. Nhưng khi Con Người đối diện với Con Người, thì ấn tượng xấu hay
tốt đối với nhau sẽ tức thời phát sinh ra trong tâm lý quan hệ, khó lòng né
tránh hay phủ nhận chúng.
Do bản tính tự nhiên của mỗi người đều có khả năng đồng cảm, nên tùy theo sự
tác động ấn tượng xấu hay tốt ấy, mà có thể gây cho nhau một hiện tượng đồng
cảm về sự quan hệ đó là tốt hay xấu, buồn hay vui.
Sự hình thành ấn tượng tốt hay xấu trong mỗi con người, là tùy vào vốn kiến
thức tinh thần của mỗi người về các quan hệ đó; “nó phải thế nào mới gọi là
tốt, và như thế nào mới gọi là xấu”. Mỗi vốn kiến thức sống như vậy sẽ tạo nên
một quan điểm về lẽ phải sống ở đời của riêng mỗi người đó.
Thông thường, lẽ phải của một người quan niệm, thì hay được họ có thói quen đem
đi so sánh với số người đang làm chỗ dựa cho sự phát triển tương lai sự sống
của họ nói chung, hay chỗ dựa về tinh thần của họ nói riêng.
Và thực tế đa số cho thấy, con người thường tìm điểm tựa cho các lẽ phải trên
theo nguyên tắc: “người nào có tiền đồ quyền thế mạnh nhất, thì nơi đó có khả
năng là một trung tâm chi phối lẽ phải của những người khác mạnh nhất”. Ví dụ,
sự giàu tiền nhiều hay ít, cũng sẽ có thể biến một con người trở thành một
trung tâm lớn hay nhỏ của lẽ phải, tùy vào tỉ lệ tiền đó nhiều hay ít so với
toàn vùng. Và họ, giờ đây, không khác gì đang đóng vai các vị “chúa tể”, hay
các vị “đại biểu” lớn hay nhỏ của một UY QUYỀN LẼ PHẢI trước mắt một số người.
Một trung tâm lẽ phải có khả năng chi phối được Hành Động của tất cả những ai
đã chọn lẽ phải đó làm điểm tựa cho cuộc sống, nhận thức và cảm xúc của đời
mình. Vì vậy, một trung tâm lẽ phải lớn sẽ có thể đóng một vai trò quyết định
về sự thịnh suy của cả một cộng đồng xã hội nhất định.
Nếu trung tâm lẽ phải đó đúng, thì mọi người cùng hưởng, cộng đồng cùng hưởng;
nếu trung tâm đó sai, thì tất cả sẽ cùng bị thiệt vậy. Ví dụ: những bi kịch rối
loạn xã hội trầm trọng, đều có nguồn gốc trách nhiệm chính từ các trung tâm lẽ
phải lớn đang chi phối xã hội đó gây ra.
Thực tế, đời sống con người không phải chỉ dựa vào các trung tâm đó không, mà
còn phải dựa trực tiếp vào cái tâm vô thức trong chính bản thân mỗi người nữa.
Do đó, luật của sân chơi mới là giới thiệu đến mọi người, một trung tâm lẽ phải
khác tốt hơn bất kỳ trung tâm nào đang có: đó là trung tâm lẽ phải đang sẵn có
từ trong nội tâm của mỗi người, đó là Trung Tâm Lẽ Phải của Cái Tâm trong mỗi
người.
Mục đích của con người là đi tìm chỗ dựa cho lẽ phải, chính là vì hai nguyên
nhân: sợ mất Sức Cơ Bản (chết đói, không được yên thân), và muốn được phát
triển Sức Dư Thừa (sống hưởng thụ Hạnh Phúc trọn vẹn). Nhưng thực tế đã chứng
minh, chưa có một trung tâm lẽ phải nào trên thế giới, có thể đem lại kết quả sức
sống phù hợp với sự mong đợi Hạnh Phúc chung của mọi người đến mỗi người.
Bởi, như đã nêu, các trung tâm lẽ phải chính của thời đại nào cũng thường hay
có tính bạo lực, vì thiếu khả năng chứng minh hiệu quả, đâu là con đường phát
triển sức sống đoàn kết và thống nhất giữa mọi người với nhau một cách không
bạo lực. Vì vậy, kết quả thực hiện các “lẽ phải” như trên, thường xảy ra ngược
trở lại với ý nghĩa của “lẽ phải” hơn là làm sáng tỏ thêm tính đúng đắn của nó.
Các trung tâm lẽ phải thường mang tính tập trung uy quyền về cho một thiểu số
người. Trung tâm lẽ phải mới của ngôn ngữ A là trả mọi uy quyền về cho mọi
người; tức là mọi người đều có uy quyền điều khiển lẽ phải như nhau, phù hợp
với khả năng sống thực tế của mỗi người.
Mục đích của sự tập trung uy quyền điều khiển lẽ phải, là nhằm tạo một sự phát
triển thành công cho cộng đồng. Phải chăng, cách đó chỉ đúng trong môi trường
Không Bình Thường. Vậy, nên giao quyền về cho mọi người, khi điều kiện môi
trường xã hội đã trở lại Bình Thường, thì sự phát triển của xã hội mới có thể
đạt đến lý tưởng vậy.
Vì sao? Vì trong thời bình: một là, sự tập trung ôm đồm của một nhóm người sẽ
không bao giờ có đủ điều kiện, để giải quyết kịp thời hết mọi sự vận động đa
dạng của mọi người trong cộng đồng; hai là, sự tập trung lẽ phải sẽ dẫn đến sự
tập trung quyền lực và quyền lợi quá lớn vào cho một thiểu số người, điều đó sẽ
dễ gây tác động và cám dỗ đến những người trực tiếp quản lý nó, khi mà các ranh
giới về bản chất con người vẫn còn là một ẩn số; ba là, bản chất quan hệ con
người là có ít nhiều tình cảm, nên một sự sai trái trong trách nhiệm ắt sẽ phải
có ít nhiều sự bao che giữa những người có quyền thế với nhau, gây thiệt hại từ
nhỏ đến lớn, đến quyền lợi của cả cộng đồng (Các tội phạm như thế thường không
bao giờ có cách nào xử phạt cho công minh); bốn là, bản chất của mọi yêu cầu
tập trung uy quyền đều đòi hỏi hình thành một hệ thống bạo lực nhất định để bảo
vệ, mà nó cũng có thể trở thành là một phương tiện để đàn áp con người, nếu mỗi
khi các trung tâm quyền lực ấy phạm sai lầm. Nên nó cũng là nguyên nhân trực
tiếp cản trở sức phát triển của con người, và làm phức tạp hóa khả năng nhận
thức lẽ phải của toàn xã hội.
Trả uy quyền về cho mọi người, thì tất cả mới thật sự trở thành là sự phân công
của xã hội, không hơn không kém. Khi tất cả đều có quyền bình đẳng như nhau,
thì sẽ không còn ai còn quyền để phạm tội, để lấn lướt, để áp đặt sự oan ức và bất
công lên nhau.
Vấn đề trên chỉ thực hiện được, khi con người xây dựng được một hệ thống lẽ phải
mới, mà sao cho các hệ thống lẽ phải khác bị phủ nhận ra khỏi cái gốc nhận thức
của con người, để chỉ chừa lại một hệ lẽ phải duy nhất: đó là “Hệ Lẽ Phải của
Cái Tâm Con Người” hay hệ lẽ phải của qui luật tạo hóa qui định.
Lẽ phải của cái tâm con người được hình thành trên hai điểm tựa: sự Cảm Hứng
trong Sức Dư Thừa của mỗi người, và khả năng lý giải sự Cảm Hứng đó trong tất
cả mọi Cảm Hứng khác. Ví dụ, một người có cảm hứng làm bài toán lớp một; thì
liên hệ ra, đó là một bài toán căn bản, mở đầu cho môn toán học và được phát
triển lên hết các lớp phổ thông, đến đại học và trên đại học v.v... Và đó là
một tiền đề để xây dựng nên một mức sống văn minh vật chất hiện đại và Hạnh
Phúc cho loài người.
Hay ví dụ: một người có cảm hứng thích làm giàu “tiền”; thì liên hệ ra, đó là
một phương tiện qui đổi của các giá trị vật chất trong môi trường kinh tế
thương mại; đồng thời, nó cũng là một vế tiêu biểu của vật chất, hợp cùng với
“lẽ phải” của tinh thần để tạo thành sự cân đối trong khái niệm về “Hạnh Phúc
đời người”.
Như vậy, lẽ phải của cái tâm con người, hay lẽ phải T, trước hết phải thuộc về
sự cảm hứng của mỗi người. Vậy, chúng ta có thể suy ra: “lẽ phải nào mà người
nào cảm thấy không thích hay hứng thú, thì họ có quyền đưa ra kết luận từ chối
lẽ phải đó, vì nó không phải là thứ lẽ phải họ đang cần”. Khi người đó có quyền
không làm theo lẽ phải đó, thì cũng tức là có quyền gọi nó là một lý lẽ sai
trái, hay nó không phải là một lẽ phải đúng nghĩa.
Nhưng quan trọng hơn, lẽ phải T chỉ trở nên có giá trị ứng dụng khi người đó đã
có một khả năng nhất định để phân biệt được lý lẽ sai, đúng v.v..., để có thể
lý giải định vị xem lẽ phải T cảm hứng của mình, là như thế nào so với mọi lẽ
phải đa dạng khác. Hay đúng hơn, lẽ phải riêng đó có ý nghĩa như thế nào so với
lẽ phải chung A, hay so với Lý Lẽ Chung A trong môi trường A.
Vì sao phải dùng ngôn ngữ A để so sánh và định vị cho ý nghĩa của lẽ phải cảm
hứng T riêng tư?
Nếu hậu thuẫn của lẽ phải không còn là “bạo lực” nữa, thì cách chọn lẽ phải sẽ
không còn dựa chủ yếu trên số đông hay trên uy quyền như trước nữa, mà phải dựa
trên SỰ HỢP LÝ giữa các lẽ phải khác nhau để làm cơ bản. Điều đó có nghĩa,
trong đời sống thực tế, sự tự biểu quyết của cá nhân sử dụng lẽ phải T là có
tính quyết định; còn sự biểu quyết của số đông hay sự minh giải tác động của
mọi ngôn ngữ khác cũng đều chỉ có giá trị ở mức: dùng để tham khảo cho cá nhân
đó về thế nào là sự hợp lý của một vấn đề.
Từ góc độ của ngôn ngữ A, vai trò lý giải và tranh luận để suy ra sự hợp lý của
một lẽ phải, bao giờ cũng có tính quyết định tiền đề để định hướng sự chọn lựa
lẽ phải cho mỗi con người. Phải chăng, điều đó chỉ có thể được thực hiện thành
công khi nó được xảy ra trong môi trường của ngôn ngữ A; vì ngôn ngữ A được lập
ra chính là để bảo vệ thành công quyền lợi của lẽ phải T của mỗi người, trước
sự tranh luận với mọi lẽ phải V khác. Vì lẽ đó, lẽ phải T chỉ có thể tồn tại
khi có ngôn ngữ A đứng cạnh bên làm hậu thuẫn, hay ngôn ngữ A là cái hồn của lẽ
phải T vậy.
Như vậy, con người muốn dùng lẽ phải T, thì trước tiên phải hiểu biết về ngôn
ngữ A để có khả năng xác định vị trí lẽ phải cảm hứng T của mình đang tại đâu
trong môi trường A hay trong thế giới con người. Có như thế con đường phát
triển của lẽ phải T mới hy vọng có được nhiều cơ may đạt đến sự thành công
trong trước mắt, và cả trong tương lai lâu dài, thông qua khả năng ý thức tự
bảo vệ và không ngừng chủ động tự rèn luyện khả năng nhận thức về lẽ phải T của
mỗi người.
Phát triển được “lẽ phải cảm hứng riêng tư” thay cho “lẽ phải mệnh lệnh”, có nghĩa
là con người đã tạo tiền đề phát triển cho (hp) vậy. Hay đó cũng là bước mở đầu
cho một giai đoạn mới, nó thuận lợi cho sự hình thành thói quen sống để Hạnh
Phúc của con người!
6. NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG QUYỀN LỰC
Sức sống con người, khi được dùng vào một mục đích, một trách nhiệm hay một công
việc nào đó, thì sẽ được biểu hiện thành một LỰC nhất định để tác động. Nếu sự
tác động đó mang tính chi phối đến các quan hệ con người với nhau, thì chúng ta
gọi nó là một QUYỀN LỰC.
Quyền lực của con người được biểu hiện qua hai dạng chính: Dạng Nội Tâm và Dạng
Hình Thức. Mặt khác, quyền lực của con người có thể được tập hợp từ các Quyền
Lực Cá Nhân để tạo thành một Quyền Lực Chung, có sức tác động to lớn hơn. Tập
Trung Quyền Lực là làm cách nào để có thể tập hợp được tất cả mọi Quyền Lực Cá
Nhân vào thành một Quyền Lực Chung, có tính đại diện cho tất cả Lực có trong
một tổ chức nhất định. Nó được tạo ra nhằm để thực hiện một mục tiêu chung và
hữu ích nào đó, vì cái lợi cộng đồng nói chung và vì mỗi cái lợi cá nhân nói
riêng.
Trong ngôn ngữ B, để thực hiện sự Tập Trung Quyền Lực trên, con người có thể sử
dụng phương pháp bầu chọn, v.v..., để tìm người tiêu biểu nhận lãnh trách nhiệm
đại diện quản lý và sử dụng tốt nhất cái Quyền Lực Chung vừa mới được tạo ra
đó. Nhưng kết quả thực tế cho thấy, các cách làm trên đa phần mới đạt về sự Tập
Trung Quyền Lực Hình Thức là chính, còn Quyền Lực Nội Tâm thì vẫn có thể còn
nằm ngoài sự tập trung đó; mà sau đó nó có thể trở thành một thứ quyền lực giấu
mặt chống lại Quyền Lực Chung Hình Thức kia. Do đó, sự Tập Trung Quyền Lực như
thế sẽ chưa thể tạo được một hợp lực tối ưu cho mọi quyền lực có trong một cộng
đồng.
Ẩn số của vấn đề trên sẽ tùy thuộc vào sự nhận thức của con người đối với quyền
lực dạng Nội Tâm là như thế nào. Đó là loại quyền lực có thuộc tính là CẢM HỨNG
và TỰ GIÁC. Nên khi mọi sự Tập Trung Quyền Lực, chỉ mới tác động đến các giá trị
Quyền Lực Hình Thức mà chưa chủ động được về Quyền Lực Nội Tâm, thì đều sẽ
không tránh khỏi dẫn đến sự thất bại, trong mục đích muốn xây dựng sự sống đoàn
kết, hòa bình và Hạnh Phúc giữa mọi người với nhau.
Quyền Lực Nội Tâm của con người chỉ chịu sự chi phối duy nhất bởi Lẽ Phải Cảm Hứng
T. Lẽ Phải Cảm Hứng T chịu sự chi phối hiệu quả bởi ngôn ngữ A. Bản chất của
ngôn ngữ A là tạo môi trường thuận lợi để mọi người được tự do tranh luận bình
đẳng về mọi nội dung nhận thức, mà mỗi người muốn quan tâm. Hay ngôn ngữ A
khuyến khích sự mở rộng nhận thức của mọi người theo một trình tự hợp lý, công
khai, bình đẳng và không giới hạn.
Trong khi đó, bản chất của Lẽ Phải Mệnh Lệnh V của ngôn ngữ B, là hạn chế con người
được tự do tranh luận bình đẳng về nhận thức. Hay nó có cho phép và khuyến
khích mọi người được tự do tranh luận, v.v..., nhưng thường chỉ mới đạt nhiều
về hình thức. Bởi trong thực tế của môi trường ngôn ngữ B, Sức Cơ Bản của con
người đã bị Lẽ Phải Mệnh Lệnh V khống chế bằng nhiều hình thức, biện pháp,
phương thức khác nhau; nên do đó, không ai lại “dại” gì đi tranh luận các nội
dung, mà kết quả của nó có thể nghịch lại “ý muốn” của những Trung Tâm Quyền
Lực đại diện cho các lẽ phải V ấy, để gây thiệt cho Sức Sống Cơ Bản của họ. Và
vì thế, một cảm giác “vô lý” vẫn như cảm thấy luôn đang tồn tại trong nội tâm
của những con người đang sống trong môi trường B trên.
Vì vậy, trong môi trường lẽ phải V, con người thường phải bị đối mặt với các
“vô lý” phát sinh trong đời sống cá nhân và xã hội. Chúng có ở mọi nơi một cách
khó hiểu. Và chúng đang âm thầm một cách vô hình làm suy yếu đời sống tinh thần
của con người; bởi vì mỗi người hằng ngày đều phải bỏ ra một năng lượng nội tâm
nhất định, để tập làm quen và để đối phó với những ức chế tâm lý, bị gây ra bởi
các tác động của những hiện tượng “vô lý” kia.
Từ những “vô lý” trên đã dẫn đến sự kềm hãm sức sống của con người lại, hay đã kềm
hãm sức sáng tạo tích cực và lương thiện của con người lại, vốn nó dựa chính
vào nguồn Sức Sống Dư Thừa Cảm Hứng của mỗi người. Để thế vào đó, là những phát
sinh “Cảm Hứng” tiêu cực, hung ác, bạo lực, v.v... trong đời sống con người và
xã hội. Khởi đầu, chúng có thể là những “vô lý” rất đơn giản nhưng lại khó có
thể khắc phục hiệu quả; mặc dù trong thực tế, xem ra như ai cũng đều biết cách
khắc phục chúng.
Ví dụ, bệnh giấy tờ quan liêu rườm rà, bệnh nịnh trên hại dưới, bệnh móc ngoặc tham
ô hối lộ, bệnh kiếm lợi phi pháp, mua bán đồ quốc cấm, bệnh hút thuốc gây
nghiện, gây hại sức khỏe, bệnh tham quyền cố vị, bệnh thích có quyền mà không
thích chịu trách nhiệm cá nhân, bệnh la cà ngồi lê đôi mách nói xấu người khác,
bệnh “thượng đội hạ đạp”, bệnh chủ quan, độc đoán, chuyên quyền, răn đe, bệnh
làm việc gian dối, cẩu thả gây hại người khác, làm hư việc công, v.v...
Tất cả những bệnh trên, nhiều khi hỏi một em học sinh, một chị quét đường, một
anh đạp xe, một bác nông dân, chưa kể các bậc dân trí cao kiến khác, thì tất cả
đều như đã biết sẵn câu trả lời tự khi nào. Câu trả lời đơn giản là: “đừng làm
sai như thế, thì bệnh nào lại không hết!”. Nhưng khó là: “biết sai mà vẫn làm
sai, trước kia không sai bây giờ mới sai, mọi ngày không sai nhưng hôm nay sai,
bình thường không sai nhưng giờ lại muốn làm sai, v.v...?”. Những trường hợp
như thế, các ngành giáo dục hiện đại ngày nay xem ra còn nhiều lúng túng để đối
phó!
Tất cả, suy cho cùng, đều bắt đầu từ “bệnh cấm”, nhưng lại thiếu chăm lo phát
triển sức mạnh Quyền Lực Nội Tâm của mọi người với nhau. Do đó, sức sống con
người như ngày càng bị tiêu cực dần.
Muốn chữa “bệnh cấm” thì mỗi người đừng muốn mình như “chúa tể” của thiên hạ,
để “muốn gì” thì “bắt” mọi người đều phải “vâng, dạ” theo mệnh lệnh đó cả. Đó
là một Hành Động không khác gì tự trói tay. Vì con người sinh ra, nếu xét trước
mắt là do trực tiếp từ cha mẹ, nhưng về thực chất đều có nguồn gốc chính từ tạo
hóa mà ra. Nên con người dù có muốn nghe cha, nghe mẹ, nghe v.v... thì cũng nên
lắng nghe thêm “tiếng” của tạo hóa, để lấy đó làm chuẩn cho Hành Động và cho sự
sống đời mình.
Nay có người chưa phải là đấng Trời Đất tối cao, cũng chưa phải là thiên lôi
của tạo hóa sai xuống, ấy vậy mà họ cũng muốn đóng vai như của các vị trí đó,
để ra mệnh lệnh áp đặt điều này, lẽ kia giữa con người với nhau. Vậy nên,
chuyện tránh sao không tạo thành các bế tắc từ cơ bản, khi nó như đã không còn
chừa điểm tựa nào để người đời còn có thể dựa vào đó để tự giải cứu mọi sự của
thế gian này! Hay nếu có giải được việc này hay khác, thì cũng chẳng khác gì sự
cầu âu may rủi, vì không biết sự thất bại “xui xẻo” sẽ lại đến vào lúc nào, với
ai, v.v...
Như vậy, con người lạm dụng Lẽ Phải Mệnh Lệnh, khác gì tự mình đang tự gày vào
thế cờ bí; khi đó, dù có dụng bao nhiêu trí để thoát ra, nhưng cuối cùng vẫn
phải “nhân nào quả nấy” vậy. Nếu mọi người để tâm chú ý một chút, có lẽ ai cũng
sẽ có thể cảm thấy được phần nào lối thoát cho vấn đề.
Vấn đề hóa giải nước cờ, rõ ràng không phải bằng “mệnh lệnh cấm” và cấm say sưa
hơn nữa, mà là nên bỏ dần các “Lệnh Cấm Một Chiều” đó và tăng dần các “Lệnh Cấm
Hai Chiều” lên; để nhờ có các tranh luận bình đẳng đó mà sự giác ngộ của con
người mới được hình thành, và kết quả mới ắt sẽ không phụ lòng người. Song, khả
năng trên có trở nên hiện thực hay không là tùy vào ngôn ngữ của lẽ phải nào sẽ
được con người dùng đến để tranh luận?
Nếu gọi xã hội là một bàn cờ, thì mỗi cá nhân con người sẽ như mỗi con cờ. Muốn
hình thành một nước cờ, thì phải có người điều khiển các con cờ ấy. Từ rất lâu,
từ khi nền văn minh nhân loại mới bắt đầu, thì ai đã điều khiển các con cờ?
Thường là tất cả những ai có quyền thế, có sức mạnh vật chất, là y như rằng có quyền
điều khiển các con cờ; và nó cũng y như rằng, xã hội loài người luôn bị rơi vào
các thế cờ chiếu bí bởi tạo hóa!
Bởi vì, mọi con người đều có một Lẽ Phải Cảm Hứng T riêng, nên khó có ai có thể
điều khiển “con cờ” tài tình bằng chính mỗi người phải tự giác điều khiển lấy “con
cờ” của mình. Nếu vậy, ai sẽ là người chịu trách nhiệm ĐỊNH HƯỚNG CHUNG cho các
vận động tự giác kia được phối hợp nhau thành những nước cờ thống nhất và hiệu
quả.
Đó chính là một khó khăn và thử thách lớn lao, mà con người cần phải nghĩ cách
giải quyết hiệu quả nhất cho thời bình. Như đã trình bày, con người thường xem
sự bầu chọn người đứng đầu các nước cờ, là cách công bằng nhất của thời bình.
Về người được bầu thì, có khi là người chủ trương cách sống hy sinh quyền lợi
bản thân suốt đời vì mọi người, hoặc khi khác là người biết sống thành công
bằng sự nghiệp tiền tài, v.v...
Nhưng phải chăng vấn đề là, áp dụng phương thức bầu chọn hay không bầu chọn
cũng đều sai nốt, bởi mọi “con cờ” đều đã do tạo hóa điều khiển từ xa, thông
qua cái tâm mỗi người. Bản chất cái tâm của mọi người đều giống nhau, khi nó
được con người tạo điều kiện phát triển thuận lợi. Nhưng nó lại luôn khác nhau
và thành rất khó điều khiển, khi con người bằng cách này hay cách khác phá vỡ
qui trình phát triển tự nhiên và hợp lý của nó.
Giống như trong cơ thể con người, tất cả đều do các tế bào cấu tạo nên. Nhưng
mỗi tế bào tùy vị trí khác nhau mà biểu hiện các vai trò và chức năng của nó
một cách khác nhau, trong sự thống nhất của mỗi cơ thể con người. Trách nhiệm
của mỗi tế bào, tuy không được ai bầu chọn, nhưng thực tế tất cả như đã được
bầu chọn bởi tự nhiên; nhờ vậy, cơ thể con người mới được vận động nhịp nhàng,
đồng bộ và đạt hiệu quả lý tưởng một cách tự động.
Bộ máy vận động toàn xã hội cũng vậy, nhưng chỉ khác là các tế bào vô tri kia
giờ được đổi thành những con người có ý thức. Sự có ý thức đó của con người sẽ
không được phát triển thuận lợi từ những chủ quan “vô lối” của con người, mà
cần phải được dùng theo nguyên tắc: “ý thức được sự vận động chung của tạo hóa,
kế đến là của xã hội loài người, đến bản thân mỗi người mà cuối cùng là làm chủ
đến các nhận thức của mình”. Dựa trên nguyên tắc nhận thức đó, mà mỗi “tế bào
NGƯỜI” phải tự ý thức ra vai trò và chức năng trách nhiệm của mình là gì, đối
với một đời người tồn tại, để hoàn thành sự phân công đó trước trước cái tổng
thể đang vận động chung của tạo hóa và xã hội, mà có lẽ Thời Gian đã định hình
trước như thế, đã từ vô cực năm ánh sáng rồi!
Như vậy, nước cờ đi trong một ván cờ không thể do một người hay một giới người
điều khiển, mà phải do tất cả mọi người cùng điều khiển. Nếu thiếu sự đồng bộ
điều khiển đó, thì nước cờ ắt sẽ phải bị rơi vào thế cờ bí của thiên nhiên vậy!
Tức là, sự sống con người sẽ không sao tìm thấy được một bến hẹn Hạnh Phúc, mà
tạo hóa muốn dành cho con người.
Trong cơ thể con người, có lẽ bộ não là quan trọng nhất. Nhưng não mà thiếu tim
đập thì cũng thừa, tim mà thiếu phổi, phổi mà thiếu không khí, mạch máu,
v.v..., thì cũng thua! Vì vậy, không thể nói ai hơn ai nếu xét về tính hữu cơ
trong một xã hội. Cho dù trong thực tế, có lúc, con người phải ưu tiên bảo vệ
bộ não trước các nguy hiểm; nhưng đó là sự ưu tiên khách quan, chứ không do
“phân biệt đối xử”. Nên không phải vì thế mà mọi tế bào đều muốn mình trở thành
tế bào não cả là một sai lầm, là một việc làm chống lại tự nhiên. Tóm lại, tất
cả như thế nào thì phải như thế đấy, thì mọi sự mới thành công; theo nghĩa “đã
phát huy tối đa tính tích cực hợp lý của vị trí mỗi tế bào (mỗi người)”.
Trong một xã hội cũng như thế, ai hợp với sĩ, nông, công, thương, ai hợp với
giám đốc, thư ký, công nhân, thợ mỏ, vũ công, nghệ sĩ, v.v..., thì hãy chọn lấy
nghiệp đó mà làm lẽ sống ở đời. Không nhất thiết ai cũng ước mơ làm giám đốc,
làm tài tử xi nê, làm lãnh đạo cộng đồng, v.v... thì mới là hay. Tuy nhiên, tất
cả đều có thể phát triển khả năng đa dạng, để biết đâu sẽ đến một ngày con
người sẽ cho phép hoán đổi nghề nghiệp cho nhau, như một nhu cầu thay đổi sinh
động để làm tăng thêm sức sống hưng phấn, phá bỏ lệ phân công đơn điệu và cố định
như hiện nay?
Trong số các nghề nghiệp trên sẽ có xuất hiện một nghề nghiệp mới, nghề giúp
bảo vệ và tạo điều kiện tối ưu cho “cái tâm” con người được phát triển một cách
tốt nhất. “Cái tâm” gần với cái nghĩa lương thiện trong lương tâm của mỗi con
người. Chúng ta gọi đó là “NGHỀ SỐNG”.
Khi cái tâm của con người được tạo điều kiện phát triển tối ưu, thì khả năng
“TẬP TRUNG QUYỀN LỰC TỐI ƯU” từ mọi người cũng sẽ được hình thành. Bản chất
biểu hiện của cái tâm con người, là tùy thuộc vào sự “HỢP LÝ TRONG NGÔN NGỮ VÀ
TRONG KẾT QUẢ THỰC TẾ ỨNG DỤNG”. Vì vậy, cái ác trong ngôn ngữ A sẽ khó tồn tại
hơn, nhất là sự Hợp Lý của ngôn ngữ A sẽ tạo thành một ưu thế trong nhận thức
của con người so với các ngôn ngữ khác. Và khi đó, “nước cờ” của “bàn cờ” sẽ
được điều khiển bằng “DƯ LUẬN”, mà nguồn gốc của nó là các Lẽ Phải Cảm Hứng T
của ngôn ngữ A, sau khi các Lẽ Phải V hay các Lẽ Phải Mệnh Lệnh (Áp đặt, Cảm
Hứng Tiêu Cực, v.v...) đã nhường chỗ cho vai trò của Lẽ Phải T lên ngôi.
Như thế, kết quả cuối cùng của vấn đề bầu chọn hay không bầu chọn, là tùy thuộc
vào con người có đủ khả năng giúp phát triển “Cái Tâm” của mọi người bằng ngôn
ngữ A hay không. Hay ai có khả năng “khai tâm” được nhiều người nhất, thì người
đó sẽ được xem như đã tạo được quyền lực mạnh nhất. Một Quyền Lực Chung được
hình thành bằng sự tạo điều kiện và khuyến khích tranh luận bình đẳng và công
khai giữa mọi người với nhau, thì quyền lực đó sẽ có thể có nhiều khả năng trở
thành không có đối thủ, để có thể tạo thành một khối đoàn kết rộng rãi và thống
nhất giữa mọi người với nhau. Và như thế, một mô hình Tập Trung Quyền Lực kiểu
mới được hình thành.
Đó là một xã hội của Cái Tâm người được lên ngôi, để thay cho các uy quyền của
“bạo lực” hay của “cái ác” phải xuống ngôi. Trách nhiệm xã hội giờ đây không
còn của riêng ai, không còn của riêng giới quyền lực nào, mà sẽ thuộc về trách
nhiệm của mọi người.
Xã hội của Cái Tâm người là một xã hội bao gồm những con người được cung cấp tất
cả mọi thông tin theo yêu cầu, một cách có hệ thống và khoa học, trên cơ sở của
các nhu cầu hợp lý của mỗi hoàn cảnh thực tế của mỗi đời người cụ thể. Đó không
khác gì một xã hội, mà công nghệ thông tin sẽ được chiếm đầu bảng; và ngôn ngữ
A sẽ trở thành ngôn ngữ bản lề để hợp nhất mọi quan hệ con người lại với nhau,
thành một ý chí thống nhất mà không cần phải dùng đến các phương tiện bạo lực
để duy trì một sự thống nhất “một chiều” chủ quan nào.
Như vậy, Con Người Mới là con người biết xây dựng các mối quan hệ dựa trên sự
đề cao Cái Tâm, thay cho sự đề cao “quyền thế” và “bạo lực áp đặt”. Để cuối
cùng, từ nội dung nào mà con người có thể thống nhất được qua ngôn ngữ A, thì
nội dung đó sẽ là kim chỉ nam, sẽ là lực điều khiển chính cho sự tự giác của
mỗi người phải dịch chuyển nước cờ của mình một cách hợp lý nhất, trên tổng thể
nước đi của ván cờ, bằng tất cả sự Cảm Hứng phát triển trí tuệ và khả năng Hạnh
Phúc của mỗi con người.
Khi khả năng trên được nhơn rộng ra hiệu quả, thì một nguyên tắc Tập Trung
Quyền Lực kiểu mới được xác lập, để có thể cạnh tranh với các nguyên tắc khác.
Nó cũng sẽ có thể là một nguyên tắc bất khả chiến bại trước các nguyên tắc
khác; khi trong các Tập Trung Quyền Lực Hình Thức con người không thể tập trung
được các Quyền Lực Nội Tâm, nhưng trong Tập Trung Quyền Lực Nội Tâm thì con
người sẽ tập trung được tất cả mọi Quyền Lực Hình Thức và tất nhiên, kể cả các
Quyền Lực Nội Tâm.
7. HÀNH TRANG NGÔN NGỮ A CHO CÁ NHÂN
Giá trị con người cao hay thấp là tùy vào “ý nghĩa” Hành Động của mỗi người. “Ý
nghĩa” đúng, thì kết quả thành công sẽ tăng toàn diện và lâu dài; “ý nghĩa”
sai, thì khả năng thành công sẽ giảm dần theo chiều ngược lại. Và như thế, Hạnh
Phúc sẽ đến với người có nhiều thành công, còn đau khổ sẽ đến với người có
nhiều thất bại.
“Ý nghĩa lý tưởng” là khi sự lý giải đó được tất cả mọi người công nhận, không
ngoại trừ một ai. Do đó, muốn có một Hành Động đạt ý nghĩa đúng, thì không còn
cách nào khác hơn là phải hỏi ý kiến đến mọi người. Điều đó có nghĩa, mọi người
cũng cần có nhận thức để hiểu “thế nào là ý nghĩa của một Hành Động”, để có thể
góp ý kiến về “ý nghĩa Hành Động” của những người khác, hay cũng cần cho sự tự
kiểm về “ý nghĩa Hành Động” của chính mình.
Nếu có người nào không muốn tự kiểm về Hành Động của chính mình, thì người đó
sẽ có thể là một nguy cơ cho những người xung quanh. Hay tức là người đó đang
có nguy cơ trở thành người ác vậy!
Như vậy, sự trau dồi khả năng nhận thức về “ý nghĩa Hành Động” của tự bản thân
mỗi người, phải là điều kiện cơ bản để xây dựng thành công một xã hội văn minh,
Hạnh Phúc và hiện đại.
Muốn hiểu ý nghĩa của một Hành Động, thì bắt buộc con người phải dùng một ngôn
ngữ nhất định để làm phương tiện lý giải. Có ngôn ngữ lý giải sao cho cái lợi
chỉ ngả về cho một số người ưu tiên nào đó, và có ngôn ngữ lý giải sao cho cái
lợi được chia hợp lý đến khắp mọi người.
Trong thực tế đời sống ngày nay, con người đã xây dựng được nhiều loại ngôn ngữ,
mà trong đó đa phần là nhằm đề cao mục đích vì cái lợi cho tất cả mọi người. Do
đó, để phân biệt đâu là thật hay giả, thì các ngôn ngữ phải có đủ khả năng
tranh luận công khai với nhau trước dư luận, về tính hợp lý và khoa học của mình,
để mọi người thuận lợi tham khảo và kết luận chọn lựa ngôn ngữ nào là có lợi
nhất cho sự sống con người nói chung và cho mỗi người nói riêng.
Lịch sử vận động của tạo hóa chỉ có một chiều duy nhất. Do đó, ngôn ngữ đúng là
ngôn ngữ có thể giúp con người hòa nhập vào sự vận động duy nhất và thống nhất
đó. Vậy, ngôn ngữ đúng của thế gian này chỉ có thể là một, không bao giờ có hai
ngôn ngữ cùng đúng mà bản chất phát triển lại không thể hòa hợp và tương trợ
tích cực cho nhau (?).
Các ngôn ngữ sẽ cạnh tranh nhau bằng sự phát hiện các mâu thuẫn trong lý luận,
trong ứng dụng thực tiễn hay trong thực tế tiếp nhận của mọi người đối với mỗi
ngôn ngữ ấy.
Trong thời đại ngày nay, dù muốn hay không, con người đã có sẵn một ngôn ngữ
hay nhiều ngôn ngữ nhất định, để dùng trong lý giải các ý nghĩa Hành Động của
mỗi người trong cuộc sống hằng ngày. Và thực tế đến nay, trong mỗi xã hội ngôn ngữ
của “mệnh lệnh và bạo lực” thường vẫn được xem là thông dụng nhất. Nó hay là
nguyên nhân tạo ra môi trường cạnh tranh giữa các ngôn ngữ một cách không công
bằng, gây bất lợi cho sự cạnh tranh ra đời của các ngôn ngữ mới, muốn vì lợi
ích của con người và xã hội nói chung.
Tuy nhiên, luật pháp của mỗi xã hội và tính giá trị tất yếu của ngôn ngữ mới sẽ
là lối thoát hiệu quả cho vấn đề. Lịch sử đấu tranh của nhân loại về quan hệ
con người đã ghi nhận đậm nét sức mạnh của “quyền thế và bạo lực”, là hai yếu
tố khó có thể thiếu ở kẻ chiến thắng. Do đó, luật pháp của xã hội nào cũng dành
ưu tiên bảo vệ hai yếu tố trên làm căn bản. Trong khi đó, ngôn ngữ A không
tranh giành “quyền thế và bạo lực”, mà chỉ tranh giành “QUYỀN ĐƯỢC SỐNG HẠNH
PHÚC CHO MỌI CON NGƯỜI”.
Trong một xã hội được điều hành bằng “bạo lực và quyền thế”, thì con người sống
trong một xã hội đó ít nhiều trong ngôn ngữ quan hệ cũng mang tính “bạo lực và
quyền thế”. Khi con người đã quen dùng các ngôn ngữ đó, thì tâm người sẽ khó
yên, có khuynh hướng chạy theo sức hút của đời sống hình thức bên ngoài và
thường xuyên phải đối mặt với các vấn đề của những chuyện “thường ngày xảy ra”,
như các quan hệ tiêu cực giữa con người với nhau.
Trước các quan hệ xảy ra xung quanh mình hay xảy ra với chính mình, mọi người
đều có thể nêu ra các nhận xét về chúng, cho dù họ có biết cách hay còn chưa
biết cách lý giải hết mọi phức tạp của các vấn đề trên, bằng thứ ngôn ngữ mà họ
đang quen dùng. Đó thường là các ngôn ngữ khuyến khích con người phải có “quyền
thế và bạo lực”, nếu muốn có sự sống thành công. Điều đó dễ gây cho con người
ngày càng bị lún sâu vào sự suy yếu và nghèo nàn về nội tâm và tinh thần, để
cuối cùng gây mất khả năng cảm thụ giá trị Hạnh Phúc nơi mỗi đời người.
Mặt khác, trong một môi trường xã hội khi mà con người đã quen dùng một ngôn
ngữ nào để quan hệ tồn tại với nhau, thì nơi đó sẽ khó tiếp nhận một ngôn ngữ
thứ hai nào khác, nếu không nói nó sẽ bị con người tìm cách loại trừ ngay khi
mới còn trong trứng nước.
Tuy nhiên, trong môi trường sống nào bao giờ cũng thường có sự ngăn cách về mức
sống, về quyền thế, về sự bất công, về các bế tắc trong quan hệ, về niềm tin sự
sống, về sự định hướng tương lai, v.v... giữa các giới người khác nhau. Đó sẽ
là những động cơ có thể thúc đẩy con người thoát ra khỏi môi trường ngôn ngữ
cũ, và tìm lối thoát ở một môi trường ngôn ngữ mới, có mức sống cao hơn và hiệu
quả hơn.
Sự hơn nhau trước mắt giữa ngôn ngữ A với các ngôn ngữ khác, là mọi người có
thể dễ dàng tập hợp thành một tổ chức, chỉ với một điều kiện đơn giản duy nhất:
“mỗi người đều phải muốn sống Hạnh Phúc!” Do mọi người đều muốn sống Hạnh Phúc,
nên mọi người đều nên được học biết cách tôn trọng nguyện vọng muốn sống Hạnh Phúc
của người khác. Vì nếu mọi người không được tôn trọng Hạnh Phúc, thì mỗi người
cũng sẽ không sao có được Hạnh Phúc riêng tư vậy.
Việc tạo thói quen có ý thức tôn trọng quyền sống Hạnh Phúc của người khác, cũng
có thể là một khó khăn thật sự đối với một số người trong thời đại ngày nay,
hay đối với những con người có thói quen sống quá thiên về các giá trị vật
chất.
Mọi em bé sinh ra đời đều có những cá tính bướng bỉnh nhất định, đó như là
những Lẽ Phải Cảm Hứng còn thô sơ ban đầu của mỗi đời người. Những Lẽ Phải Cảm
Hứng đầu tiên đó, bao giờ cũng bị sự tác động kềm hãm nhất định, bởi các yếu tố
nào đó của môi trường sống trực tiếp bao quanh em bé đó. Đó cũng là những “vi
phạm” quyền sống Hạnh Phúc đầu tiên của con người đối với em bé, hay giữa con
người đối với nhau.
Sự lặp đi lặp lại nhiều lần các “vi phạm” đó sẽ biến thành các thói quen từ hai
phía: một phía quen chấp nhận “bị vi phạm” và phía kia thì “tự cho quyền được
vi phạm”, vì nghĩ rằng như thế là không sai lầm. Thói quen trên, sau đó, được
hòa tan vào ngôn ngữ quan hệ; để cuối cùng, nó thâm nhập vào mọi ngõ ngách của
đời sống con người và xã hội, như máu chảy trong cơ thể con người vậy.
Tuy nhiên, do bản chất con người sinh ra để đi tìm Hạnh Phúc cho cuộc sống, nên
con người cũng sẽ tìm thấy được ít nhiều những giá trị hạnh phúc trong môi
trường thói quen trên. Từ đó, trong môi trường xã hội trên sẽ hình thành một
cách ngẫu nhiên một qui luật phát triển quân bình: giữa sự hưởng thụ hạnh phúc
cá nhân và sự tự nguyện chấp nhận để môi trường sống “lấy bớt đi” một phần quyền
sống hạnh phục của mỗi người.
Đồng thời, trong quá trình đi tìm các giá trị hạnh phúc, con người cũng đã mau
chấp nhận các giá trị hạnh phúc vật chất, với hình thức đa dạng, làm đối tượng
chính để tranh giành và thụ hưởng. Trong sự cạnh tranh đó, do sự khác nhau về
hoàn cảnh, khả năng, v.v..., nên phát sinh người sống thành công lớn, còn người
khác thì thất bại nặng nề. Trước sự chênh lệch đó, cũng với thói quen sống như
trên, con người vô hình trung có thể xem nó như là một “chân lý hiển nhiên” về
sự tồn tại các bất công tất yếu trong sự sống. Việc người này có nhiều hạnh
phúc, người kia mất hạnh phúc, được nhiều người ngầm hiểu với nhau như một định
mệnh an bày tự nhiên của tạo hóa về qui luật của sự “mạnh được, yếu thua”, như
nó đã từng tồn tại từ muôn đời của lịch sử nhân loại vậy!
Muốn khắc phục sự “bất công hợp lý” trên, nếu chỉ dùng lý luận chứng minh suôn
hay có cả các biện pháp bạo lực, thì thói quen ngôn ngữ của con người sẽ vẫn
còn đó và mầm bất công sẽ lại tiếp tục được hồi sinh, khi con người còn phải
cần đến các quan hệ cạnh tranh sinh tồn với nhau trong thời bình.
Do đó, biện pháp triệt để nhất, là xây dựng một hệ ngôn ngữ mới thay cho các hệ
ngôn ngữ bất công cũ; và chứng minh lại về thế nào là sự “công bằng hợp lý”
trong sự sống. Do thói quen tâm lý con người cuối cùng đều phải cần đến một thói
quen ngôn ngữ quan hệ nhất định để phát triển, nên nếu con người thay được thói
quen ngôn ngữ cũ thì sẽ sớm thay được các thói quen tâm lý sống bất công đã có
từ lâu đời kia trong thế giới loài người.
Trong mỗi ngôn ngữ có bao nhiêu nội dung, thì trên nguyên tác, phải thay bấy nhiêu
nội dung. Tuy nhiên trong thực tế, để cách thay đạt hiệu quả năng suất, con
người chỉ cần hiểu nội dung cách thay tổng quát, sau đó tùy yêu cầu của mỗi sự
việc mà vận dụng cho thích hợp, thì sẽ thành công.
Tạo hóa sinh ra vô số vạn vật vô thức. Sự vận động của số vạn vật vô thức đó
được tự động điều chỉnh một cách quân bình và ổn định, bởi “khả năng VÔ THỨC”
của chúng. Loài người có ý thức, nên phải TỰ CHỦ ĐỘNG ĐIỀU CHỈNH sao cho mọi
vận động cũng được quân bình và ổn định, nhưng phải bằng sự cố gắng vận dụng
tốt nhất “khả năng CÓ Ý THỨC” của loài người vậy.
Như chúng ta đã biết, do thói quen ban đầu mà mọi ước muốn Hạnh Phúc của con
người sẽ ngả về sự hưởng thụ vật chất trước, và lấy đó làm định hướng xây dựng
khả năng định tâm của mỗi người về sau. Do mọi khái niệm vật chất là hữu hình,
nên con người dễ thấy, dễ tranh giành và nó cũng dễ trở thành là nguyên nhân gây
ra mọi sự bất ổn trong quá trình định tâm như trên của con người.
Để sự tranh giành trên không bị biến thành những mâu thuẫn đối kháng như một
điều kiện sống còn, con người phải tìm ra một quyền lực trung gian đủ khả năng
điều hòa mọi hoạt động trên một cách hiệu quả. Đó là quyền lực của cái (O) vô
hình; bởi mọi sự cảm hứng Hạnh Phúc (kể cả vật chất) tuyệt đối của con người
đều nhằm đạt đến sự thư giãn tuyệt đối ở trạng thái (O) của tâm trí con người.
Điều đó trùng với khái niệm vô ưu tuyệt đối của con người, hay tức là trùng với
tâm (O) mà ngôn ngữ A muốn giới thiệu.
Như vậy, thay vì con người phải cần có thật nhiều của cải vật chất để hi vọng
tìm thấy cái (O) thư giản của cuộc sống; thì nay nên chọn thêm con đường tắt đi
kèm theo với con đường trên, như một điểm tựa tiến thủ mỗi khi thất bại hay
thành công. Đó là sự rèn luyện hưởng thụ cái (O) thư giản của cuột sống, bằng sự
làm giàu khả năng ý thức về các vô thức trong Tinh Thần của mỗi người.
Để định tâm (O) cho tinh thần, con người chỉ phải tốn chút ít thời gian mỗi
ngày để điều chỉnh các ý nghĩa Hành Động của mình. Đó là những điều kiện đơn
giản mà gần như tất cả mọi người, ai cũng đều có thể thực hiện được. Như thế,
để có được hạnh phúc của cái (O) tinh thần, mọi người có nguyện vọng đều có khả
năng đạt được, nếu xét về nguyên tắc.
Nếu có được (O) tinh thần, con người sẽ có thể nhận ra cái (O) vật chất chỉ là
một phương tiện, và sẽ không còn muốn để các giá trị vật chất ấy gây thành
những mâu thuẩn đối kháng trong quan hệ con người với nhau. Vì thói quen sống
của con người giờ đây đã bị hút về cái (O) tinh thần hơn là cái (O) vật chất,
do sự cố ý điều chỉnh có ý thức của con người hay cũng do bản chất phát triển
sinh tồn của con người là phải như thế.
Con người, khi giờ đây đã chọn cái (O) tinh thần làm điểm tựa chính, sẽ dễ dàng
thoát ra khỏi mê cung của bao chuyện tranh giành lâu nay về vật chất và bạo
lực; nhờ đó thần trí con người cũng sẽ dễ trở nên khách quan và sáng suốt hơn,
để giải quyết tốt hơn các vấn đề mâu thuẩn tranh đua trên.
Từ đó suy ra, con người do thiếu ý thức hết các ý nghĩa Hành Động của mình, nên
dễ là nguyên nhân dẫn con người đến những sai lầm đáng tiếc trong cuộc sống
này. Xây dựng ý nghĩa Hành Động mới, chính là lối thoát cho vấn đề trên; hay đó
cũng chính là vấn đề thay đổi nội dung của ngôn ngữ mà ngôn ngữ A muốn bàn đến.
Nếu từ lâu cái (O) vật chất đã tạo ra ý nghĩa Hành Động của con người ra sao,
thì nay mỗi người có thể tìm cách điều chỉnh lại, sao cho nó có lợi cho sự hình
thành của cái (O) tinh thần.
Qua quá trình chứng minh từ đầu tác phẩm đến đây, chúng ta thấy rằng để lý giải
ý nghĩa một Hành Động sao cho đúng, phải cần hội đủ rất nhiều yếu tố. Trong khi
đó, yêu cầu thực tế đời sống luôn đòi hỏi con người phải có những đáp số nhanh
chóng, để có thể ứng dụng kịp thời vào sự cạnh tranh sống còn của môi trường
sống trước mắt. Vì thế, sự thay đổi “Ý Nghĩa Hành Động” của mỗi người, không thể
được hoàn thành ngay một lúc, mà phải từng bước một phù hợp với khả năng thích
ứng theo hoàn cảnh của từng người.
Nhưng nếu giới thiệu một ý nghĩa Hành Động mới để thay thế, mà thiếu những
chứng minh thấu đáo, thì mọi người sẽ khó lòng chấp nhận. Do đó yêu cầu của vấn
đề là con người phải có thời gian nghiên cứu ngôn ngữ A trước một bước, hoặc để
chậm lại nghiên cứu sau, nhưng trước mắt mỗi người vẫn có thể dùng sự nhạy cảm
trực tiếp sẵn có từ cái tâm thiện của mình, mà nhận ra phần nào ý nghĩa hợp lý
của các nội dung do ngôn ngữ A muốn giới thiệu đến để tham khảo và chọn lọc ứng
dụng. Chỉ bằng những khả năng cảm nhận trực tiếp trên, cũng đủ để con người
phần nào hiểu ra và xây dựng thành công sự sống của mình theo các ý nghĩa Hành
Động mới đó, một cách hiệu quả và hữu ích cho sự sống riêng cũng như cho sự
sống chung.
“Ý nghĩa” là cần có suy nghĩ và nhận thức. “Hành Động” là việc làm hay các kết
quả công việc cụ thể đạt được từ các quan hệ cụ thể v.v..., mà mỗi người phải
không ngừng tạo ra hằng ngày vì các lợi ích hiện tại và cả vì các lợi ích tương
lai. Như vậy, thay đổi “ý nghĩa Hành Động” cũng tức là thay đổi thói quen phản
ứng trong các Hành Động sinh tồn của mỗi con người, trong các sinh hoạt đời
thường hằng ngày vậy thôi.
Mọi sự bế tắc nhỏ hay lớn, cụ thể hay trừu tượng của các vấn đề về quan hệ con người
với nhau trong cuộc sống, thường được chúng phân nhỏ ra thành những nội dung
chi tiết, và được biểu hiện ra thành những sai sót nhỏ trong các sinh hoạt hằng
ngày của mỗi người. Vì vậy, nếu mỗi người chịu khó để ý sửa đổi những chi tiết
Hành Động nhỏ đó, thì sự sống con người sẽ đạt được những Hành Động mang ý
nghĩa (hp) quý giá cho hiện tại và cho lâu dài về sau. Đó là cũng là một cách
“tích tiểu thành đại” vậy.
Do đó, khi ngôn ngữ mới chú trọng giải quyết các sai lầm chi tiết, trong các
Hành Động bình thường hằng ngày của con người, như trong các quan hệ, sinh
hoạt, làm việc, v.v...; thì cũng có nghĩa, ngôn ngữ mới đang đặt nền để xây nên
một tương lai mới, với nhiều hứa hẹn thành công và Hạnh Phúc cho mọi con người
hơn.
Hay cũng có thể gọi hành trang cá nhân về ngôn ngữ A của mỗi người, được bắt
đầu tính hình thành từ khi mỗi con người có ý thức kiểm tra về các “ý nghĩa
Hành Động” của mình trong ngày, theo tiêu chí: con người sống để tìm Hạnh Phúc
theo khái niệm nào, chọn ngôn ngữ ra sao?
8. GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ THỰC TẾ
Ngôn ngữ A bao gồm một số nội dung như đã giới thiệu. Tất cả chỉ để nhằm chứng
minh một điều: mọi bế tắc nan giải trong cuộc sống con người đều phần lớn do
con người chưa hiểu biết về bản chất sự sống của chính “họ”, nên dẫn đến CON
NGƯỜI ĐÃ PHẠM SAI LẦM TRONG QUAN HỆ VỚI NHAU.
Có nghĩa là, trong đời sống văn minh ngày nay, do nhiều sự ngộ nhận để cuối cùng
đã làm cho con người như ngày càng xa cách về tấm lòng thành với nhau hơn. Hay
ngày nay, con người vẫn gần nhau hơn, nhưng có lẽ nặng về thói quen tuân theo
một công thức hình thức nào đó, hơn là vì có ý thức muốn đem lại đời sống Hạnh
Phúc hiệu quả cho nhau. Vì vậy, bao nhiêu bế tắc của sự sống đời người như vẫn
còn đan ẩn mình đâu đó, từ hữu hình đến vô hình. Chúng như luôn chỉ chờ bộc
phát tại các khe yếu nhất trong các kiểu cách quan hệ của con người với nhau.
Tuy nhiên, do mọi người đều giống nhau về bản chất sống, cũng như đều cần có
nhau để tồn tại; vì vậy, nếu vén bỏ được bức màn hình thức kia, thì sự “xa
nhau” kia giữa mọi người sẽ được gần hơn chăng?
Vậy nên, nếu ngôn ngữ mới là ngôn ngữ A, thì sẽ làm mỗi một việc: tạo môi
trường quan hệ chân thật giữa mọi người với nhau; thì phải chăng, nhờ đó mà
những lời giải cần thiết cho cuộc sống, được con người giữ trong bụng từ lâu
nay, nay sẽ có cơ hội được đem ra dùng như một phép màu, để giúp nhau giải
quyết hiệu quả cho mọi sự. Nếu được vậy, thì sẽ không sợ gì câu: “Việc dễ trăm
lần không dân cũng chịu, việc khó vạn lần dân liệu cũng xong”, không trở thành
hiện thực trong cuộc sống.
Để tạo một môi trường sống chân thật giữa mọi người với nhau, điều trước tiên
là phải có tổ chức. Để hình thành tổ chức, thì chỉ cần nơi nào có sự đối thoại
từ hai người trở lên, thì nơi đó sẽ có mầm tổ chức phát sinh. Tuy nhiên, còn
tùy theo sự tác động của môi trường ngôn ngữ nào thì mầm tổ chức trên mới có
thể được phát triển thuận lợi, phù hợp với nguyện vọng sống hòa bình, Hạnh Phúc
và phi bạo lực giữa con người với nhau.
Con người thường nói: “giành chính quyền đã khó, giữ được chính quyền càng khó
hơn”. Vậy: “lập được một tổ chức tốt đã khó, giữ được một tổ chức luôn luôn tốt
là việc làm vô cùng khó hơn”. Muốn vậy, chúng ta hãy thử nêu mấy nguyên tắc sau
đây: một là, không bạo lực, không mệnh lệnh áp đặt một chiều; hai là, chọn tâm
(O) tinh thần làm cơ sở định nghĩa khái niệm Hạnh Phúc; ba là, tự do và bình
đẳng trong tranh luận để tìm ranh giới thỏa thuận chung sống tự nguyện, tự giác
trong bình yên và Hạnh Phúc giữa mọi người với nhau bằng ngôn ngữ A.
Hai nguyên tắc đầu đối với các xã hội ngày nay, chưa phải là điều khó làm; vậy,
nguyên tắc ba ắt là chìa khóa giải quyết cho vấn đề vậy.
Vì sao ngày nay con người đã dùng nhiều biện pháp giáo dục tự giác, kể cả răn
đẻ trừng trị nghiêm ngặt, mà vẫn chưa tìm ra lời giải toàn diện cho vấn đề trật
tự trị an xã hội? Vậy nay, chỉ với các nguyên tác trên, có thể giúp xây dựng
thành công một mô hình tổ chức trật tự trị an hoàn thiện cho xã hội con người
được chăng?
Trước hết, chúng ta cần hiểu: mọi cái giả là không bền, mọi cái thật thường có
giá trị bền vững hơn. Giáo dục tự giác mà phía sau là cả một hệ thống bạo lực
răn đe, thì sẽ có thể tự giác giả, không thật; chúng sẽ trà trộn với cái thật
để tạo thành một môi trường nhận thức phức tạp khó phân biệt. Nếu phía sau mệnh
lệnh là một hệ thống lý giải và tranh luận hai chiều bình đẳng công khai với
nhau, thì tin rằng mọi cái giả sẽ không còn chỗ tồn tại trước mọi cái thật đã
được công khai hóa.
Mọi con người đều muốn sống có Hạnh Phúc, đó là một sự thật tuyệt đối. Nhưng
kết quả cho đến thời đại ngày nay, mọi người vẫn chưa đạt được ước vọng Hạnh
Phúc đó. Vậy nguyên nhân lỗi đó tại ai? Có khi con người không thể nêu ra hay dám
công khai ra những nguyên cớ gây ra hậu quả trên; nhưng cũng có khi con người
không biết lỗi đó tại ai hay do đâu gây ra. Phải chăng lỗi đó do chính con
người gây ra với nhau, chứ không phải do sự trừng phạt nào từ một đấng vô hình
xa xôi gì đó là chính.
Vì sao con người có thể kết luận như thế? Vì xuất phát từ vô số cái sai, nếu
con người chú ý hiểu ra được cách sửa sai, thì y như là sẽ có bằng ấy kết quả
tốt hơn đền đáp lại sự sửa sai tích cực đó của con người. Một quan hệ xâm lấn
bờ cõi được thay bằng hành động không xâm lấn bờ cõi, thì tức thời nó sẽ đem
lại một giá trị hạnh phúc nhất định trong mối quan hệ đã được cải thiện đó.
Đối với mỗi con người cũng vậy, nếu đang quen xâm lấn quyền lợi của người khác
nhưng nay ngưng lại hành động xâm lấn đó, thì tức thời một giá trị hạnh phúc
nhất định sẽ hình thành trong mối quan hệ mới vậy. Như thế, một môi trường tổ
chức tốt là một môi trường, mà trong đó mọi người bị “mất quyền xâm lấn quyền
sống Hạnh Phúc hợp lý của nhau”.
Nếu mọi cá nhân đều không bị ai lấy mất bớt đi quyền Hạnh Phúc riêng tư của mình,
thì nhất định sẽ có ai đó xưa nay quen sống bằng sự lấy bớt đi các phần hạnh
phúc kia để tập hợp về riêng cho mình một sự thụ hưởng áp đảo, thì giờ đây sẽ
có thể bị rơi vào một sự ức chế khó chịu về tâm lý nào đó, khó có thể chấp nhận
được.
Một người không có quyền thế cảm thấy “không thể chấp nhận được”, thì chưa phải
là điều đáng lo lắm. Nhưng nếu đó là một người đang có quyền thế mà bị tác động
tâm lý: “không thể chấp nhận được”, thì từ sự bị ức chế đến sự trả đũa chủ quan
bằng uy quyền và bạo lực sẵn có, chỉ cách một bước!
Và từ sự uy quyền mệnh lệnh và bạo lực một chiều đến cái ác phi nhân tính cũng
cách chỉ có một bước. Nên nếu để xảy ra một sự ngăn cản hay một sự tước mất
quyền lợi đột ngột, không qua tự giác, đối với các “uy quyền bạo lực kia”, thì
kết quả sẽ có thể phải gánh lấy những hậu quả bất lợi.
Ví như một kẻ cướp, nếu con người bắt được và đem trị tội, thì thường không khó
lắm. Nhưng nếu người có quyền thế, có sức mạnh bạo lực hay có sức mạnh vật chất
lớn mà phạm tội, thì sẽ thành rất khó hay không thể bắt được tội để trị. Khó
bắt được một phần vì thế mạnh vật chất và uy quyền của họ, mà còn vì những hành
vi trên đã được đa số con người đã quen gây nhập tâm cho nhau rằng: “như thế có
lẽ là tự nhiên, nên phải biết chấp nhận vì không thể khác được!” (?)
Hơn nữa, ngoài thói quen hợp thức hóa hành vi lấy bớt hạnh phúc vật chất giữa
con người với nhau, con người còn lấy bớt trực tiếp hạnh phúc tinh thần lẫn
nhau một cách thường xuyên mà không hay biết. Để hiểu và đòi lại được quyền lợi
về tinh thần, thì càng bội phần khó hơn.
Sự xâm lấn nhau về quyền lợi vật chất được con người thực hiện chủ yếu bằng
phương thức cạnh tranh làm giàu cá nhân. Sự xâm lấn nhau về quyền lợi tinh thần
được con người thực hiện bằng phương thức “tranh giành quyền áp đặt lẽ phải lên
nhau”.
Bản chất của tạo hóa là độc quyền, bản chất của mặt trời là độc quyền, nên bản
tính muốn “độc quyền” là một hiện tượng tự nhiên trong sự sống mỗi con người.
Nhưng sự “độc quyền một chiều” bằng “bạo lực” trong cạnh tranh giành quyền áp
đặt lẽ phải giữa con người với nhau lại là một sự phản tự nhiên; vì chỉ có sự
“độc quyền” tranh luận bình đẳng “hai chiều” với nhau mới thật sự phù hợp với
lẽ tự nhiên của Đất Trời.
Sự “độc quyền một chiều” trong quan hệ đầu là chỉ nhằm chú ý ưu tiên bảo vệ quyền
lợi của một thiểu số người. Sự “độc quyền hai chiều” sau, là sự độc quyền nhằm
tạo điều kiện phát triển QUYỀN LỢI CÔNG BẰNG cho tất cả mọi người.
Ví dụ, sự độc quyền tài sản của một ông chủ so với tất cả công nhân sẽ là “một
chiều”, nếu ông chủ giàu lên và công nhân thì nghèo xuống; sẽ là “hai chiều”
nếu tất cả cùng giàu lên theo một tỉ lệ hợp lý.
Sự độc quyền lẽ phải của một số người sẽ là “một chiều”, nếu còn phải dùng bạo
lực để áp đặt cho số người chưa đồng ý phải chấp nhận; sẽ là “hai chiều” nếu
tất cả mọi người cùng đồng ý về lẻ phải đó mà không cần đến bạo lực.
Như vậy, một xã hội còn một hiện tượng bất ổn, thì xã hội đó còn mang tính “độc
quyền một chiều”; vì còn có người biểu hiện sự chưa đồng đống ý với xã hội đó,
nhưng có thể không nói ra vì còn sợ các uy quyền và bạo lực.
Tuy nhiên, do các ham muốn vật chất của con người là không giới hạn, nên mọi sự
thỏa thuận về bất kỳ một tỉ lệ nghèo giàu nào giữa con người với nhau cũng đều
rất khó đạt được. Vì vậy, để duy trì được một trật tự xã hội, con người thường
phải dùng đến “bạo lực” làm căn bản, như một bản chất thứ hai sau bản chất sinh
tồn của con người thời đại văn minh vậy.
Nhưng nếu con người còn dùng bạo lực, thì xã hội sẽ luôn luôn còn bất ổn; cái
ác, cái thiện sẽ tiếp tục bị lẫn lộn; sự đau khổ vẫn tiếp tục là một ranh giới
khó vượt qua; và sự “độc quyền một chiều” sẽ được tiếp tục ngự trị bền lâu
trong đời sống xã hội loài người.
Vì thế, phải chăng lời giải duy nhất chỉ có thể là: bằng cách nào xây dựng một
tổ chức mà trong đó mọi người phải tự giác tôn trọng nhau không vì một điều
kiện bạo lực nào, mà chỉ dựa trên sự phát triển nhận thức của mỗi người; thì
khi đó, sức mạnh của cái thiện mới thật sự được tập hợp hiệu quả nhất theo
nguyên tắc" Tập Trung Quyền Lực Tối Ưu". Đó sẽ là một sức mạnh tinh
thần vô cùng hữu hiệu, nó sẽ giúp phát hiện và điều chỉnh mọi nhận thức sai
trái hay mang tính bạo lực và bất công giữa con người với nhau một cách hợp lý
và công bằng.
Và tổ chức đó không có nguyên tắc xây dựng nào đơn giản và hiệu quả hơn là nguyên
tắc, “mọi người muốn có sự sống hạnh phúc toàn diện” đều có thể tham gia vào tổ
chức đó. Và tổ chức đó cũng không nên dùng ngôn ngữ nào khác ngoài ngôn ngữ A,
như là một phương tiện chứng minh và định nghĩa về khái niệm Hạnh Phúc đời
người, một cách hợp lý, công bằng và hiệu quả nhất.
Sự hợp lý và công bằng đó không có gì khác hơn là: “hãy để mọi người được tự do
tranh luận bình đẳng về mọi khái niệm Hạnh Phúc bằng phương tiện của ngôn ngữ
A”. Từ các kết luận chung đó sẽ tạo thành một giao ước nhất định giữa mọi người
với nhau, về cách sống của mỗi người trước các kết luận chung đó, để sao cho
tất cả cùng có trách nhiệm kiến tạo nên một môi trường sống trật tự, hòa bình,
ổn định, Hạnh Phúc và phi bạo lực, vì một xã hội văn minh, tiến bộ và hiện đại.
Đến đây, vấn đề thành công hay thất bại của tổ chức, sẽ tùy thuộc quyết định
vào nội dung tham gia của ngôn ngữ A đối với các kết luận đa dạng trên. Nếu nội
dung của ngôn ngữ A tham gia có lợi hơn so với các nội dung của ngôn ngữ B, thì
mọi người ắt sẽ chọn; còn nếu kém hơn, thì khái niệm về tổ chức trên sẽ là
không thực vậy!
Tuy nhiên, xét đến thời đại ngày nay, con người vẫn chưa có một mô hình nào
chứng minh và định nghĩa về khái niệm Hạnh Phúc một cách hệ thống và khoa học
hơn như những nội dung do ngôn ngữ A đã giới thiệu?
Hơn nữa, bản chất của ngôn ngữ A là “mở”, nên sẵn sàng đón nhận công khai hay
tranh luận công khai mọi ý kiến từ mọi nguồn, chỉ với hai điều kiện đơn giản
là: “xóa bỏ bạo lực và đem lại Hạnh Phúc cho mọi người”. Đó phải chăng là hai
điều kiện phù hợp với Cái Tâm hay phù hợp với mọi thời đại, nên ngôn ngữ A sẽ
được tồn tại và phát triển nhờ có sự tiếp sức của mọi người chăng? Vậy nên ngôn
ngữ A còn được gọi là NGÔN NGỮ CỦA QUẦN CHÚNG, ngôn ngữ của mọi con người muốn tiến
đến một cuộc sống phi bạo lực và Hạnh Phúc!
Tuy nhiên, bởi ngôn ngữ A, nó vừa là một lý luận khoa học nhưng cũng vừa mang
tính tất yếu của tự nhiên; nên mọi sự trao đổi, góp ý hay tranh luận trực tiếp
trước các ngôn ngữ đa dạng, chưa được “chuẩn hóa”, của các ngôn ngữ B, đều sẽ có
thể bị từ chối hay phủ nhận trực tiếp bởi ngôn ngữ A.
Bởi từ thực tế khách quan xã hội hiện nay, con người đang dùng vô số ngôn ngữ
để làm điểm tựa sinh tồn cho mình, nên nay nếu bỏ thời gian ra để tranh luận trực
tiếp với mọi lý lẽ “tự phát” ấy, để tìm một chuỗi các kết quả vượt thời gian
nào đó, thì e rằng lợi bất cập hại!
Do đó, khi con người còn chưa thống nhất nhau về ngôn ngữ A, thì bắt buộc sau
tranh luận trực tiếp, phải là các hình thức gián tiếp như bằng các tác phẩm
nghiên cứu, bằng thời gian và thực tế trả lời, bằng dư luận, v.v...
Trong tranh luận trực tiếp, chúng ta biết rằng từ cảm tính con người có thể
tranh luận bằng hai hướng: hướng hợp lý trong “nội dung lý lẽ” và hướng đánh giá
“Cái Tâm” thông qua hiện tượng đồng cảm giữa con người với nhau.
Do bản chất của ngôn ngữ A là xây dựng và phát triển Cái Tâm con người; nên khi
xét việc, phải xét đồng thời cái lý có ăn khớp với cái tâm người như thế nào,
thì hiệu quả tranh luận mới đạt chất lượng cao.
Cái Tâm căn bản nhất của con người là tâm thiện, tâm khách quan, tâm phi bạo lực,
tâm vô tư, tâm của lợi ích chung, v.v... Đó là Cái Tâm của những con người biết
hướng thiện, được nuôi dưỡng và rèn luyện bằng nhiều cách mới đạt được. Nếu con
người có tâm cơ bản là (O), thì khả năng nhận thức vấn đề sẽ càng khách quan
hơn, nhờ đó vấn đề gì cũng có thể được giải quyết với kết quả cao hơn so với
mọi tâm khác.
Tâm càng bạo lực, càng ác, thì càng dễ chủ quan, nên trong nhận thức giải quyết
các vấn đề quan hệ con người với nhau, nó sẽ bao giờ cũng dễ mắc sai lầm hơn.
Sự yếu kém trên càng lộ rõ, khi nó phải tranh luận công khai và bình đẳng trong
Môi Trường Bình Thường, nhất là trước ngôn ngữ A, thay vì phải chờ hậu quả thực
tế theo thời gian mới bị phát hiện.
Do đó, nếu gọi ngôn ngữ A là ngôn ngữ giúp con người rèn luyện tâm cơ bản (O)
hiệu quả nhất so với các phương pháp của các ngôn ngữ khác, thì cách giải quyết
các vấn đề thực tế đời sống con người và xã hội bằng ngôn ngữ A, sẽ mang tính
toàn diện và hiệu quả cao hơn so với mọi ngôn ngữ khác.
Chúng ta biết rằng, mọi vấn đề của sự sống con người và xã hội đều phải bắt đầu
từ “ngôn ngữ”. Do đó, từ ngôn ngữ A, con người sẽ dễ dàng chủ động xây dựng một
tương lai xã hội mới tốt đẹp hơn, hạnh phúc được phát triển toàn diện hơn,
trong một môi trường phi bạo lực hơn, v.v..., nếu như ngôn ngữ A thật sự có khả
năng như vậy.
Nếu được như thế, thì nhờ rèn luyện được Cái Tâm bằng ngôn ngữ A trên, con
người sẽ có khả năng hiểu được cái tâm của nhau, và sẽ có thuận lợi để tìm ra
những ranh giới chung sống đoàn kết, Hạnh Phúc và phi bạo lực giữa mọi người
với nhau vậy.
9. NHỮNG VẤN ĐỀ GẦN VÀ XA
Những vấn đề gần là những vấn đề trong phạm vi các cá nhân với nhau, hay các tổ
chức nhỏ với nhau. Những vấn đề xa là những vấn đề lý giải trong phạm vi rộng
lớn của xã hội, quốc gia hay nhân loại. Hay chúng còn có nghĩa gần về thời gian
hiện tại và xa về các diễn biến tương lai.
Các vấn đề xa hay gần đều có sự liên kết ảnh hưởng thống nhất với nhau. Muốn
đạt đến kết quả của vấn đề gần mà thiếu khả năng suy đoán về diễn biến của các
vấn đề xa, thì các vấn đề gần, thấy tuy nó đơn giản, nhưng có khi con người sẽ
không sao giải quyết chúng đến thành công hoàn toàn được.
Giải quyết việc nào cũng phải nhắm đến mục đích xa nhất mà mọi con người đều
muốn đạt đến, đó là ước nguyện được sống Hạnh Phúc. Mà Hạnh Phúc là thiện, là
phi bạo lực, là có tổ chức, v.v...; trong đó, vấn đề quan trọng nhất, sau khi
đã có ngôn ngữ, là phải có tổ chức. Vì trong một xã hội mà còn một người đứng
ngoài tổ chức thống nhất, thì sẽ còn một nguy cơ gây tội ác xuất hiện vậy.
Vậy vấn đề là, sao cho tất cả mọi người liên quan đều được nhập vào một hệ tổ
chức thống nhất, như một điều kiện trọng yếu để xây dựng thành công một tương
lai tốt đẹp và hoàn thiện cho xã hội loài người.
Nếu bắt buộc mọi người phải vào một tổ chức bằng biện pháp mang tính của cái
ác, như sự áp đặt bằng bạo lực, thì con người vào tổ chức đó cũng sẽ trở thành
ác ngoài khả năng chủ động của tổ chức đó. Điều đó cũng không khác gì những
người đó đang đứng bên ngoài của tổ chức.
Do đó, cách duy nhất để xây dựng một tổ chức thành công toàn diện, là tạo điều
kiện để con người tham gia vào tổ chức một cách tự nguyện, tự giác, không bị áp
đặt bởi bạo lực. Điều đó chỉ có thể thực hiện thành công bởi một điều kiện duy
nhất, tổ chức đó phải đem lại nhiều lợi ích cho đời sống con người hơn là khi
họ còn đứng bên ngoài của tổ chức đó.
Thế, điều gì tổ chức có thể giúp ích cho con người nhiều hơn những gì con người
đang sống bên ngoài tổ chức đó, đang có?
Ngày nay, bất kỳ xã hội nào còn những bất công, còn thiên tai, dịch họa, còn tội
phạm các loại, còn bệnh tật, tai nạn các loại, còn phải già yếu, cô đơn, còn
ham sống, ham vui, ham hưởng thụ hạnh phúc, còn phải lo cạnh tranh đi tìm sự
sống hằng ngày, v.v... thì còn bấy nhiêu khả năng, để tổ chức có thể giúp sự
sống con người được hoàn thiện hơn.
Thực tế, bản thân sự tồn tại của mỗi người đã là một thành viên ngẫu nhiên của
một tổ chức nhất định; ví dụ như tổ chức gia đình, tổ chức xã hội hay quốc gia,
v.v... Tuy nhiên, có điều là, các tổ chức đó có khi còn gây ra những bất công
và đau khổ cho con người, mà mỗi người đã phải “tình cờ chấp nhận” chúng từ khi
mới được lọt lòng mẹ chào đời. Bởi tất cả ai cũng đều không được lựa chọn cửa
để sinh ra kia mà!
Vì mỗi con người không được chọn nơi bắt đầu sinh ra sẽ thuộc vào tổ chức nào,
nên cũng khó có thể chịu trách nhiệm hết về hành vi của mình sẽ tác động tiêu
cực ra sao đối với các tổ chức đó. Vì vậy, mọi con người khi lớn lên đã có đủ
suy nghĩ, thì nên cho họ được tự do chọn cho mình một tổ chức mà trong đó mọi
nguyện vọng riêng của cá nhân họ được tôn trọng, và được lý giải để đáp ứng một
cách hợp lý và hiệu quả nhất.
Nếu có được một thỏa thuận tự nguyện hợp lý ban đầu, giữa một bên là cá nhân và
bên kia là tổ chức, thì sẽ không ai muốn phá đi sự hợp lý thỏa thuận ban đầu
đó, như phá đi chính sự lợi ích tồn vong của bản thân họ.
Ngoài ra, trong các xã hội hiện nay, thực tế, con người vẫn chưa định nghĩa
được Hạnh Phúc đời người là gì một cách thống nhất, nên mọi người sẽ khó có thể
thỏa thuận với nhau về thế nào là sự vi phạm ranh giới quyền sống Hạnh Phúc của
người khác, trong quá trình xây dựng ranh giới Hạnh Phúc của riêng mình. Do đó,
cái ác, bạo lực và đau khổ luôn là những hiện tượng tất yếu vẫn xảy ra thường
xuyên trong môi trường của các tổ chức đó. Điều đó đã giải thích, tại sao con
người đã bỏ nhiều công sức nghiên cứu giáo dục về cái thiện, sự tự giác, v.v...
nhưng hậu quả thất bại vẫn như ngày càng xấu hơn!?
Khi một trật tự tổ chức xã hội bị thất bại, thì con người càng ra sức tăng
cường nhiều lệnh cấm hơn, bạo lực trừng phạt càng nặng hơn, v.v...; để cuối
cùng, con người sống trong các tổ chức đó bị biến thành như nạn nhân của sự
giàu có về vật chất, nhưng lại bị suy yếu đi về đời sống tinh thần một cách vô
hình. Bởi, không phải tất cả mọi người đều đồng tình với những lệnh cấm “độc
quyền một chiều” do chính con người gây ra với nhau.
Những lý do trên sẽ trở thành những nguyên nhân tác động, làm cho con người cố
thoát khỏi các tổ chức cũ để tìm đến các tổ chức mới lạ khác, nhưng có thể tạo
cho họ một niềm tin về một tương lai không có những bế tắc như hiện tại. Nếu có
một môi trường nhận thức kiểu mới, khoa học và hợp lý hơn, có thừa khả năng hơn
để đem lại cho con người một mức sống hiệu quả hơn, thì con người sẽ càng dễ
tiến gần đến môi trường của tổ chức mới ấy hơn.
Chúng ta có thể chia sự sống của con người ra làm hai phần: phần của các bộ phận
cơ thể và phần của trí tuệ con người. Đối với con người, vấn đề chăm lo bộ não
trí tuệ mới thật là việc làm mang ý nghĩa trọng tâm và lâu dài đối với mỗi đời
người. Chăm lo trí tuệ là chăm lo sự thông suốt về tư tưởng, về nhận thức và về
khả năng phát triển sự Cảm Hứng trong thư giãn vô ưu, thông qua sự phát triển ý
thức về các qui luật vận động tất yếu trong thế giới tồn tại của vạn vật.
Do đó, xây dựng một tổ chức mới trong lòng một tổ chức cũ, không thể bằng sự
tăng cường các lệnh cấm mang tính áp đặt bằng bạo lực nhiều hơn nữa; mà phải
bằng sự tăng cường các chứng minh về nhận thức, về “thế nào là các lệnh cấm
thừa hay thiếu mà người chịu lệnh thật sự muốn xây dựng.”
Một lệnh cấm đưa ra bao giờ cũng có hai ý nghĩa: vì lợi ích của mọi người hay
vì lợi ích nội tại của chính những người ra lệnh cấm đó. Một lệnh cấm mà kết quả
luôn bị thất bại trong thực hiện, thì lệnh cấm đó nên cần được xem lại; thực
chất nói đang đem lại lợi ích theo ý nghĩa nào?
Một lệnh cấm có lợi cho cá nhân hay có lợi cho một số người là sự có lợi về hai
mặt, vật chất và tinh thần. Về vật chất, như là được giàu có, chức vụ, quyền thế
được bảo đảm, v.v...; về tinh thần, như là được tiếng khen, được danh lợi, được
đánh giá hoàn thành trách nhiệm, được ít tốn công suy nghĩ lo lắng, được thực
hiện theo lẽ phải chủ quan riêng tư, v.v...
Diễn giải trên còn là một minh chứng đến bản chất sinh tồn tự nhiên của mỗi con
người, là muốn được ổn định về đời sống vật chất và tinh thần, hay được bảo đảm
về quyền lợi cơ thể và quyền lợi về trí tuệ (như được phát triển về tư duy và
được Hành Động theo các tư duy ấy).
Ví dụ, con người có thể ra lệnh cấm theo danh nghĩa: “vì lợi ích của mọi người
và hi sinh quyền lợi bản thân”. Nhưng nội dung trên vẫn có thể mang ý nghĩa là:
“vì lợi ích bảo vệ thói quen lẽ phải của số người này, mà dùng quyền thế áp đặt
xóa bỏ thói quen lẽ phải của số người khác”. Vì vậy, những lệnh cấm như thế
thường cũng phải có bạo lực làm đòn bẩy trợ lực, để hi vọng giành phần thắng
trước mọi chống đối. Tuy nhiên, mọi giá trị lẽ phải phi bạo lực đều thiêng
liêng, nên mọi sự lạm dụng bạo lực đều không tránh khỏi thất bại.
Trước những lệnh cấm một chiều như thế, dễ làm cho con người mất niềm tin về lẽ
phải, vì nó đúng với nhóm này mà không đúng với nhóm người khác. Nói cách khác,
giờ đây lẽ phải như không còn đúng với sự thật nữa, và “lẽ phải của cái ác” sẽ
dễ tìm thấy cơ hội để phát sinh.
Để tái lập lại sự quân bình cho một môi trường lẽ phải toàn thiện, phải chăng
vấn đề duy nhất đúng là đi tìm một mô hình lẽ phải thống nhất chung cho tất cả.
Để xây dựng một môi trường lẽ phải thống nhất, vấn đề ắt là phải đi lấy ý kiến
mọi người chứ không chỉ riêng những người có quyền thế bạo lực mạnh nhất. Tuy
nhiên, do lẽ phải của mọi người bao giờ cũng khác nhau về hình thức nhưng giống
nhau về nội dung bản chất, nên việc tìm một lẽ phải thống nhất đúng sự thật, sẽ
không phải bằng cách chọn lẽ phải mẫu sau đó nhơn rộng ra để bắt mọi người phải
từ đó bỏ lẽ phải riêng tư; mà vấn đề là phải biết tôn trọng tất cả lẽ phải phi
bạo lực riêng tư và quy chúng lại thành một hệ Lẽ Phải Thống Nhất, hay đó là hệ
của LẼ PHẢI HẠNH PHÚC CHO MỌI NGƯỜI.
Mục đích lớn nhất của sự hình thành hệ Lẽ Phải Thống Nhất là vì một sự sống tự
giác, trật tự, Hạnh Phúc và thống nhất trong toàn xã hội. Vậy muốn xây dựng hệ
Lẽ Phải Thống Nhất thành công, con người phải biết chấp nhận một thực tế đa
dạng về hình thức của các lẽ phải chân thiện hay phi bạo lực, thì một trật tự
xã hội Hạnh Phúc và tốt đẹp mới sẽ xuất hiện.
Do đó, xây dựng một trật tự xã hội tuyệt đối, là phải biết “đa dạng hóa các
hình thức tổ chức” để sao cho mọi đa dạng lẽ phải trên được phát triển thuận
lợi; thì tin rằng một mô hình Lẽ Phải Thống Nhất đúng sự thật sẽ xuất hiện như
mong muốn. Trong môi trường lẽ phải như thế sẽ không còn ai muốn phá hoại tính
trật tự thống nhất và vững mạnh của nó nữa, vì nó có lợi cho Hạnh Phúc của tất
cả mọi cá nhân trong cộng động.
Vậy khi mọi Lẽ Phải Riêng Tư được tôn trọng, thì điều đương nhiên là con người
sẽ từ bỏ dần các lẽ phải được quen dùng có tính tiêu cực đối với tổ chức, để
soạn ra những đường ranh giới hợp lý giữa các lẽ phải với nhau, sao cho không
còn ai bị thiệt thòi về quyền lợi riêng tư. Những đường ranh giới thỏa thuận
đó, không có bất kỳ một bậc anh hùng tài trí nào có thể làm thay được, mà nó
chỉ có thể thực hiện được bằng sự đồng lòng hợp sức của tất cả mọi người trên
cùng các vấn đề có liên quan với nhau.
Từ góc độ phát họa đó, nhiệm vụ của ngôn ngữ và tổ chức sẽ gần như chỉ là giữ
vai trò văn bảng hóa, hợp thức hóa, hệ thống hóa và phổ biến hóa các nội dung
ranh giới đã được thỏa thuận chung sống hòa bình, Hạnh Phúc và phi bạo lực kia.
Hay còn gọi đó như là những nhiệm vụ của các “đầy tớ trung thành của nhân dân”
vậy.
Chúng ta cũng cần lưu ý, nghĩa chung của “bạo lực” là: mọi sự cố ý áp đặt ngược
lại những gì mọi người đã thỏa thuận thống nhất một cách bình đẳng với nhau,
không bị chi phối bởi một đe dọa nhân tạo nào. Đây như là một định nghĩa được
áp dụng trong môi trường tổ chức của ngôn ngữ A.
Song song đó, một nhiệm vụ quan trọng mà ngôn ngữ A phải làm là: định hướng sự
tranh luận để có thể tìm ra ranh giới giữa các lẽ phải, sao cho chúng phản ánh
đúng bản chất thật của vấn đề cần phải đạt, thay vì phải loay hoay với những
thói quen cũ của những nhịp điệu công thức, giáo điều, hình thức, chủ quan, kém
hiệu suất, v.v...
Hay có nghĩa là, con người phải biết sử dụng ngôn ngữ A làm phương tiện cho
tranh luận, nếu không mọi sự tranh luận cũng sẽ lại dẫn đến thất bại bế tắc hay
bạo lực như cũ.
Người biết sử dụng giỏi ngôn ngữ A là người có tâm cơ bản (O). Đó là những
người chọn ngôn ngữ A làm nghề nghiệp chính để sống. – Còn người biết cơ bản về
ngôn ngữ A, là những người xem ngôn ngữ A như là phương tiện cơ bản trong cuộc
sống, để phát triển nghề nghiệp chính khác của mình. Chúng ta gọi chung đó là
những người có tâm cơ bản (1).
Vấn đề quyết định thành công của một tổ chức mới, trong giai đoạn đầu, sẽ là lệ
thuộc chính vào những người có tâm (O) được rèn luyện bằng con đường phức 12. Để
từ đó họ có thể giúp mọi người tổng hợp thành công mọi dạng lẽ phải khác nhau
thành một hệ Lẽ Phải Thống Nhất, trong một thời gian hợp lý và không cần dùng
đến bạo lực. Đó là một khó khăn lớn cho những người có tâm (O) đầu tiên.
Khác với các ngôn ngữ khác, người có tâm (O), trong ngôn ngữ A, chỉ có quyền
giới thiệu hay gợi ý hướng tranh luận và các kết luận hiệu quả nhất cho vấn đề;
còn sự chọn lựa ra sao là do mọi người liên quan trong vấn đề phải tự kết luận
lấy theo khả năng độc lập suy nghĩ của mình, miễn là không nằm ngoài ba nguyên
tắc để xây dựng một tổ chức luôn tốt như đã nêu trong (ch. 8).
Muốn thế, mỗi nhóm tổ chức phải đề cử ra đại diện để hợp thành các nhóm tổ chức
chung với đại diện rộng hơn, v.v..., để giúp mọi kết luận giữa các lẽ phải cục
bộ không thành mâu thuẫn với nhau, mà là phối hợp nhau tạo thành một kết luận
tổng hợp của một Lẽ Phải Thống Nhất cho tất cả các nhóm tổ chức trên. Cứ thế
phát triển dần lên thành một hệ thống Lẽ Phải Thống Nhất phủ khắp cộng đồng và
xã hội, v.v...
Vấn đề hay hoặc dở của ngôn ngữ là sao cho mọi kết luận tự do trên, cuối cùng
bao giờ cũng tìm được sự thống nhất giữa các lẽ phải với nhau trong sự bằng
lòng cho tất cả mọi người, mà vẫn không cần dùng đến bạo lực trong quá trình
hình thành cũng như trong quá trình ứng dụng chúng sau này.
Các ngôn ngữ khác đều sẽ gặp rất nhiều khó khăn trước các điều kiện trên, vì
các “đạo diễn” của các kết luận như thế thường có tâm là (1) như mọi người
khác, nên biết dựa vào đâu để tổng hợp cho đúng, cho hợp ý của tất cả mọi
người.
Bản chất của mỗi con người đều muốn bảo vệ cái (1) riêng tư như bảo vệ mạng sống
của mình vậy. Do đó, dễ có mấy ai nhường cái (1) của mình cho ai? Vì thế, trong
các ngôn ngữ, mọi người đều biết nói lời hay ý đẹp để khuyên dạy, kêu gọi với
nhau; nhưng khi thực hành, chúng vẫn có thể không xảy ra đúng như vậy, bởi ai
cũng bận lo cái (1) của riêng mình.
Sự thật đó được thể hiện rõ trong thời bình, khi mà con người đã có đủ điều
kiện để sống thật với bản chất mưu cầu hưởng thụ riêng tư của mỗi người.
Khi con người còn thiếu nền tảng chứng minh bản chất ý nghĩa tồn tại của mỗi
con người trên thế gian này là gì, thì mọi quan hệ con người với nhau sẽ tiếp
tục khó tránh khỏi những đấu tranh mâu thuẩn bất hòa triền miên, cùng với những
cố gắng khắc phục quanh co như giữa đám chỉ rối chưa tìm được mối ra. Và cứ như
thế, thời gian qua thời gian, con người phải chạy mãi... trong vô định, để rồi
người khổ, người sướng, người quyền thế đáng kính, kẻ xấu xa đáng tội vẫn như
càng thêm xa cách nhau hơn, như âm dương cách trở không bao giờ có thể hòa hợp
với nhau.
Từ ngôn ngữ A, phải chăng con người mới biết dựa vào cái tâm (O), để họa ra mọi
cái (1) lên (O) thành một hình vẽ tổng hợp; trong đó, không còn sợ thiếu quyền
lợi của riêng ai bị giành mất phần. Nhờ thế, bạo lực mới không cần xảy ra, con
người mới có thể hợp nhất thành thỏi nam châm với thế âm dương gắn bó vững bền.
Tất cả là nhờ, người có tâm (O) cũng phải lo bảo vệ cái (O) riêng tư; nhưng
không có bất kỳ cái (O) riêng tư nào có thể tự bảo vệ được trên cõi trần này mà
lại không cần đến mọi cái (1). Do đó, muốn có (O) thì phải có tất cả (1), nhờ
đó mà quyền lợi (1) của mọi người đều có thể tìm ra đầu mối tổng hợp thành công
trong môi trường của ngôn ngữ A vậy.
Khi mọi cái (1) được hòa thuận phát triển ổn định, thì đó là môi tường thuận
lợi để mọi cái (1) được dễ dàng chuyển sang (O) khi cần thiết, trên nguyên tắc
tác động hình thành bởi con đường lý giải của đơn 13.
Khi tâm mọi người đều dễ dàng qua lại giữa (O) và (1), thì khi đó, nhân loại sẽ
đạt đến đỉnh giới hạnh của trình độ nghệ thuật về quan hệ giữa con người với
nhau chăng?
10. NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC
Con đường từ đây đến trình độ giới hạn của nghệ thuật quan hệ con người với nhau,
sẽ đòi hỏi con người phải vượt qua đoạn đường làm chủ về trình độ tổ chức môi
trường cộng động, cũng như phải làm chủ môi trường nội tâm của mỗi người trước
đã.
Như đã chứng minh ở chương trước, sức mạnh vượt trội của ngôn ngữ A so với các
ngôn ngữ khác, là dựa trên hai yếu tố: tâm (O) và khả năng đa dạng hóa môi
trường tổ chức xã hội.
Ngày nay, con người thường ứng dụng một mô hình tổ chức phổ biến, đó là cơ chế
quân bình giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp như ba cơ quan quyền lực chính
của một cơ chế tổ chức xã hội.
Một trình độ tổ chức mới là làm sao mỗi con người đều dễ dàng trở thành một nhà
lý luận về lập pháp, hành pháp và tư pháp một cách tài ba không kém gì các nhà
chuyên nghiệp trong ba cơ quan trên kia; bởi mỗi con người cụ thể cũng, phải
chăng, chính là một xã hội thu nhỏ. Do đó, nếu “các xã hội nhỏ” không cân đối hoàn
chỉnh, thì phải chăng xã hội lớn sẽ là cái bóng của những kém cỏi đó vậy.
Trong xã hội ngày nay, người dân có thể nghĩ rằng họ không có liên quan gì đến
các việc “chính trị”, đến việc công, v.v..., mà chỉ biết lo thu vén cho đời
sống riêng tư là đủ. Nó như là một lẽ sống hiển nhiên của đại đa số các mức
sống phổ thông đang có trong các xã hội ngày nay.
Nhưng sự thật, mỗi con người đã là một phần của cái chung không thể chối cãi
được; bởi sự thịnh suy của mỗi người cũng là một phần thịnh suy của cái chung
hay của cả cộng đồng. Do đó, nếu mỗi người tự chối bỏ trách nhiệm chung, thì
khác gì mỗi người đã tự chối bỏ một phần trách nhiệm với chính mình hay cũng là
chối bỏ sự an toàn của bản thân họ vậy.
Tuy nhiên, những vấn đề trên có lẽ ai cũng đã biết cả. Nhưng điều khó lý giải
từ xưa đến nay là người dân mỗi khi nói đến việc công, thì dễ có xu hướng e dè,
nể sợ, v.v... vì vấp phải những quan liêu, phiền hà, vòi vĩnh, ngông nghênh,
v.v..., mà vẫn không sao tìm thấy cửa công nào đủ hiệu quả để đòi quyền được
khắc phục những sai trái phổ biến đó.
Sự thật, suy cho cùng, dù đi bất cứ nơi nào trên trái đất này để tìm cho ra một
cánh cửa công đầy năng lực như thế, e rằng chỉ phí công và tốn sức. Phải chăng,
bởi vì cánh cửa công đầy năng lực đó đang nằm tại chính khả năng: mọi người có
chịu hợp sức và cùng chịu trách nhiệm trước các việc chung kia chăng.
Hay nói cách khác, chính các cơ chế đơn điệu, độc đoán và lạc hậu của xã hội đã
cản trở mọi con người phát huy đúng khả năng của mình. Thay đổi cơ chế tổ chức,
thì nhất định mọi con người, dù muốn hay không, cũng đều sẽ phải tham gia vào
việc chung một cách tự nhiên như phải làm việc riêng vậy.
Chúng ta thấy, tổ chức cũ chỉ có bộ máy của thiểu số người “chính qui” được
chọn lọc để chịu trách nhiệm quản lý và điều hành tất cả sự vận động phát triển
của cả cộng động. Một tổ chức “ốc đảo” như thế thật ra không đủ sức đảm đương mọi
chuyện của mọi người trong một xã hội, một cách triệt để trong điều kiện của
Môi Trường Sống Bình Thường.
Do đó, nhu cầu thành lập một bộ máy toàn dân là “chính qui”, phải chăng là một
thực tế đòi hỏi, nếu con người còn nuôi hi vọng về một giấc mơ: “muốn xây dựng
một thế giới Hạnh Phúc trọn vẹn cho tất cả mọi người!”
Vấn đề được bắt đầu từ sự định nghĩa thế nào là một “gia đình”. Từ lâu khái
niệm “gia đình”, một đơn vị tổ chức cơ bản của mỗi xã hội, đã được hình thành
một cách tự phát và được con người nhận thức, quản lý và điều hành theo cách
gần như hoàn toàn ngẫu nhiên. Chúng vận động giống như không theo một chuẩn mực
hay một khuôn phép nào có tính quản lý qui cũ và hiệu quả trên phạm vi toàn xã
hội. Đó là nguyên nhân phát sinh các điểm yếu cơ bản của các xã hội trong thời
đại văn minh ngày nay chăng?
Nếu có một gia đình bị tan vỡ bởi nhiều lý do, dưới nhiều hình thức, thì mọi
người và xã hội gần như bị trói tay vì thiếu hẳn một động cơ lý giải hợp lý
nào, để có thể tạo điều kiện cho con người giúp đỡ nhau một cách đơn giản,
thuận lợi và hiệu quả nhất đối với các gia đình đó.
Trong mô hình tổ chức mới, phải chăng con người nên định nghĩa “gia đình” theo
hai nghĩa, hay tổ chức gia đình có hai dạng: GIA ĐÌNH THƯỜNG và GIA ĐÌNH MỚI.
Dạng đầu được hiểu theo nghĩa bình thường đang có, dạng thứ hai là các nhóm tự nguyện
họp lại để sống và sinh hoạt như một Gia Đình Thường, hay theo nhiều hình thức
đa dạng phong phú khác, miễn là các quan hệ đó được đặt nền phát triển trong
môi trường của ngôn ngữ A.
Hay một Gia Đình Thường sẽ trở thành một Gia Đình Mới, nếu nó ưng thuận chọn
phương tiện quan hệ trong gia đình là ngôn ngữ A. Với cách định nghĩa như vậy
là nhằm giúp cho con người, ai cũng có thể tìm cho mình một điểm tựa “gia đình”
bình đẳng và vững chắc như nhau. Mỗi Gia Đình Mới cũng sẽ có dòng họ, tổ tiên,
v.v..., nhưng các nguyên tác và hình thức quan hệ đó sẽ đơn giản, thuận lợi và
hiệu quả hơn rất nhiều vì lợi ích sự sống của con người, so với các mô hình Gia
Đình Thường.
Điều đó cho thấy, dưới góc độ ngôn ngữ A, Hạnh Phúc sự sống con người không
nhất thiết phải lệ thuộc vào một mô hình tổ chức kiểu mẫu cố định nào đó, mà
chính là do cách quan hệ con người theo ngôn ngữ nào đó, thì giá trị hạnh phúc
và nhân cách con người sẽ hình thành tùy theo tính chất giá trị của ngôn ngữ
ấy.
Do mỗi cá nhân được sinh ra và lớn lên đều phải dùng một ngôn ngữ quan hệ nhất
định, vậy nên mọi con người sinh ra đều có đủ điều kiện để trở thành người sống
có Hạnh Phúc. Mà Hạnh Phúc là đỉnh của mọi giá trị cao nhất của mọi ý nghĩa sự
sống của mỗi đời người. Vậy dưới góc độ của ngôn ngữ A, sự bình đẳng Hạnh Phúc
giữa mọi người với nhau sẽ trở thành hiện thực, khi con người không thể lợi
dụng ngôn ngữ để biến mọi sự giàu có về tiền của vật chất, về bằng cấp học vị,
về quyền thế danh vọng, v.v... thành như một nguy cơ hay như là một thứ kẻ thù
của con người trước Hạnh Phúc, hay chúng được dùng như những nguyên nhân tạo nên
sự ngăn cách bất bình đẳng về quyền sống và Hạnh Phúc giữa con người với nhau.
Như vậy, nếu con người có được một hệ thống tổ chức xã hội tốt như trên, thì
quyền bình đẳng và tự do của mỗi người sẽ được tôn trọng hiệu quả, các nguy cơ
quan hệ bạo lực giữa con người với nhau sẽ bị tiêu trừ tận gốc, mọi bất công vô
lý trong đời sống xã hội sẽ bị biến mất, và mọi người sẽ được dễ dàng phát huy
hết khả năng và sức sống của mình, với nghĩa đầy đủ của các khái niệm về tư
cách của những con người biết tự làm chủ sự sống của mình.
Do đó, khi mọi người đã tìm được cho mình một Gia Đình Mới như một điểm tựa tổ
chức lý tưởng, thì các tổ chức đó sẽ tự nguyện tập hợp lại thành những đơn vị
tổ chức lớn hơn, nhằm mục đích đạt đến một sự hợp nhất kiểu mới trong cộng
đồng. Cộng đồng được thống nhất, thì sẽ tạo thành một sức mạnh vô địch, giúp con
người không còn sợ khó khăn nào không thể vượt qua trong thời bình. Và vì vậy,
mà sự đau khổ và nguy cơ chiến tranh giữa con người với nhau sẽ có cơ may chấm
dứt vĩnh viễn.
Từ khái niệm tổ chức theo nghĩa của đơn vị “gia đình”, chúng ta có thể liên hệ
ứng dụng vào cho mọi hình thức tổ chức khác của các hình thức hoạt động khác
nhau ngoài xã hội. Nơi nào, khi nào, có việc gì, có liên quan đến ai, liên quan
bao nhiêu người, liên quan bao lâu v.v... thì những người đó đều có thể lập
thành những Gia Đình Mới thích hợp. Hay tất cả chúng được hình thành theo nguyên
tắc: “dựa trên nội dung gì tổ chức đó được thành lập, thì nội dung đó, công việc
đó sẽ do tổ chức đó toàn quyền quyết định, không ai được quyết định thay”. Tất
cả mọi người, từ trên xuống dưới, ai cũng có quyền góp ý kiến tham mưu, nhưng
quyền quyết định cuối cùng vẫn phải thuộc về tổ chức đó.
Nguyên tắc trên cũng giống như nguyên tắc áp dụng cho mỗi đời người vậy. Mỗi
con người là một đơn vị tổ chức nhỏ nhất, cuối cùng của mỗi gia đình, của mọi
tổ chức; “nó cũng có quyền quyết định tất về sự sống đời nó mà vì lý do đó, đơn
vị tổ chức cá nhân đó được thành lập!” Mọi con người từ trên xuống dưới chỉ có
quyền góp ý kiến tham mưu về mọi vấn đề, nhưng quyền tự quyết của mỗi đời người
là phải do chính cá nhân đó tự quyết định, không ai có quyền và có khả năng thay
thế. Quyền cá nhân trên ắt sẽ chỉ trở thành hiện thực, khi sự sống của cá nhân
đó được phát triển trong môi trường của ngôn ngữ A vậy.
Nếu trẻ nhỏ mới lớn được cho làm quen với một ngôn ngữ A, thì khi lớn lên thói
quen sẽ giúp trẻ đó dễ dàng chấp nhận ngôn ngữ A một cách tự nhiên hơn. Nhờ đó,
nhân cách và giá trị Hạnh Phúc của cá nhân đó sẽ dễ hoàn thiện bền vững hơn,
nhờ từ các phương pháp luận của ngôn ngữ A.
Đối với một đứa trẻ chưa làm quen với ngôn ngữ A, nhưng cũng chưa có đủ quyền
và đủ khả năng để chọn lựa, thì người lớn hay cha mẹ có thể quyết định thay cho
đứa trẻ để chọn tham gia vào ngôn ngữ A hay không. Nhưng ví như, người lớn lâu
nay vốn đã quen thích ngôn ngữ B, thì rõ ràng việc trên sẽ gặp khó khăn. Trong
hoàn cảnh đó, ai sẽ có thể giúp tham vấn cho các bậc cha mẹ khi họ đang quen
chọn ngôn ngữ khác ngoài A?
Vấn đề cũng giống vậy; nếu mọi người muốn được tìm hiểu và làm quen với một ngôn
ngữ A, nhưng điều kiện môi trường tác động đang có của xã hội ngăn trở các
nguyện vọng trên thì sao? Vì nó đang quen vận động với các ngôn ngữ khác ngoài
A từ bao đời nay.
Sự thật, sự trắc trở trên nếu có thì chỉ có thể xảy ra trong chừng mực, bởi
thật ra ngôn ngữ A chỉ là một khái niệm trừu tượng. Một khái niệm trừu tượng
thì tất yếu nó cũng sẽ có khả năng phát triển một cách trừu tượng và vô hình;
nên khi sự vận động của xã hội chưa phù hợp, thì thực tế cũng sẽ chỉ cho con
người khả năng ứng phó thích nghi nó một cách hợp lý nhất. Chuyện giống như
giặc đang thế mạnh, thì mọi người phải rút vào bí mật để kháng chiến vậy. Tuy nhiên,
do bản chất hợp lý và hữu ích của ngôn ngữ A đối với mọi người, nên tin rằng nó
sẽ được thuận lợi trong phát triển như một tất yếu tự nhiên của cuộc sống và
của tạo hóa vậy.
Mục đích thành lập các tổ chức “gia đình” là nhằm tạo nên một môi trường cơ sở
thống nhất phi bạo lực, trên nguyên tắc ứng dụng hiệu quả một ngôn ngữ nhất
định nào đó, ngôn ngữ A chẳng hạn. Và ngôn ngữ A xem đó như là điều kiện tiền
để thực hiện thành công mọi ước vọng sống hòa bình và Hạnh Phúc của con người. Đó
là sự hạnh phúc về tinh thần được kết hợp với sự hạnh phúc về vật chất, tạo thành
một giá trị Hạnh Phúc hoàn chỉnh và lý tưởng nhất cho tất cả mọi người.
Tuy nhiên, tất cả mới là nguyên nhân tinh thần mang tính bản chất của vấn đề,
trong khi đó nguyên nhân vật chất mang tính hình thức mới là nguyên nhân trực
tiếp, để tổ tiên loài người thành lập ra các loại ngôn ngữ cho tiện việc thông
tin liên lạc với nhau, trong sinh hoạt, trong lao động sản xuất, hay trong
chiến đấu, v.v...
Do đó, khi một tổ chức ngôn ngữ được hình thành nhằm tạo “sức mạnh tinh thần”,
thì cũng đồng thời làm xuất hiện một “sức mạnh vật chất” hình thức khác; nó tạo
khả năng cho con người hoàn thành các nhiệm vụ vật chất cụ thể.
Để duy trì và phát triển sự sống, con người phải làm nhiều việc, trong đó có
những việc riêng và những việc chung. Do từ khi loài người có ngôn ngữ, mà mọi
sự vận động của con người đều dần trở nên in đậm tính thời gian và không gian.
Do nội dung thời gian và không gian đã được con người mở rộng về chiều rộng
cũng như chiều sâu cho đến thời đại ngày nay, nên lượng thông tin được truyền
tải trong một ngôn ngữ, trong một không thời gian nhất định, cho một công việc
nhất định, giữa một số người nhất định, thường là không đáp ứng đủ theo yêu cầu
thực tế.
Vì vậy, do thiếu thông tin kịp thời, cũng là một nguyên nhân phổ biến đã làm
cho các kết quả làm việc của con người có thể bị trở thành sai trái, và trong
đó cũng có thể bao gồm cả những sai phạm mang tính tội ác to lớn đối với con
người, đối với xã hội hay đối với cả nhân loại.
Khi thiếu thông tin, con người sẽ khó tránh khỏi phạm sai lầm, và mọi cái sai
nếu bị lập đi lặp lại nhiều lần sẽ có thể biến con người trở thành ác độc. Vì
thiếu thông tin mà người thiện vẫn có thể làm việc ác một cách tự nhiên, dửng
dưng như một kẻ ác thật sự và đáng sợ. Vì họ tưởng đó là việc thiện, là đã có
người chịu trách nhiệm chứng minh, lý giải đó là không ác thay cho họ!(?)
Do đó, xây dựng một môi trường ngôn ngữ mới với một hệ thống tổ chức khoa học
và triệt để, còn là mục đích xây dựng một hệ thống thông tin kịp thời, chính
xác và có chọn lọc hiệu quả đến mọi người.
Một hệ thống thông tin tốt không phải là một hệ thống giỏi che giấu mọi sự thật
theo chủ quan nào đó, mà là một hệ thống biết mở cửa cho tất cả mọi thông tin
một cách kịp thời, phải lúc, phải nơi, phải đối tưởng, có tính hệ thống, phải
có lời giải chủ động, v.v... và nên có ngôn ngữ A làm nền.
Một lượng thông tin tốt không phải bằng cách dông dài lê thê những thứ người ta
không cần, và nghèo nàn hay ngắn ngủn những điều con người muốn biết, muốn
nghe, v.v...!
Trong cuộc sống hiện đại, thực tế khách quan cho thấy, con người quen chạy theo
tốc độ như một minh chứng của những người đang sống trong thời đại điện tử. Tốc
độ càng cao thì thói quen kiên nhẫn càng giảm, lượng thông tin tiếp nhận cũng
càng hạn chế, thì sự sai lầm của tội ác sẽ càng dễ tăng. Hơn nữa, thời đại văn
minh ngày nay là thời đại của thói quen văn minh vật chất; do đó, con người
muốn hạn chế các thông tin về các giá trị đạo đức đến mức tối thiểu, để cố đạt
đến càng nhiều những thông tin đã bị vật chất hóa, hơn là Hạnh Phúc hóa. Kết
quả là đời sống tinh thần của con người thời đại bị yếu dần, và mọi sự chạy đua
tốc độ như trên đã không thể đạt đến hiệu suất cao như ý!
Do đó để khắc phục, khi con người được tạo điều kiện sống trong môi trường
thông tin thống nhất, thì vai trò của ngôn ngữ A có trách nhiệm tích lũy,
nghiên cứu và hệ thống hóa tất cả mọi thông tin lại cho con người. Sau đó thông
qua mạng tổ chức, tùy loại thông tin sẽ được thường xuyên cung cấp kịp thời cho
đúng đối tượng, mà người nhận không phải tốn nhiều thời gian để nghiên cứu tìm
tòi mà kết quả nhiều khi vẫn không đạt được theo yêu cầu.
Như vậy, trong khái niệm về một mô hình tổ chức mới, vai trò của công nghệ thông
tin trở thành yếu tố quyết định cho sự thành bại của một tổ chức. Làm chủ được
sự thông tin, thì con người sẽ làm chủ được sức mạnh dư luận, và bằng dư luận
con người sẽ đẩy lùi sức mạnh bạo lực để xây dựng thành công môi trường sống
bình yên cho mọi con người.
Ngoài ra, có được dư luận thống nhất thì con người sẽ dễ dàng huy động được mọi
sức mạnh cần thiết, để hoàn thành mọi công trình phát triển vật chất to lớn khác,
mà không sợ bất kỳ sự thất bại nào từ nguyên nhân con người.
Điều đó chỉ trở nên hiện thực khi các giá trị thông tin dù có từ nguồn nào, cũng
đều phải chịu sự kiểm tra bình đẳng và công khai từ hai chiều, và quyền quyết
định cuối cùng phải thuộc về đối tượng sử dụng trực tiếp nội dung thông tin đó.
Để duy trì một mô hình tổ chức, bao giờ cũng đòi hỏi phải có một người đại diện
làm hạt nhân cho sự vận động thống nhất của tổ chức đó. Khi một tổ chức có đông
người thì yêu cầu phải được chia thành nhiều đơn vị nhỏ, và thành nhiều cấp để
tạo thành sự hội tụ của đỉnh tam giác, có ích cho sự kiểm tra vận động thống
nhất của toàn tổ chức.
Thông thường với một hệ thống tổ chức nhiều tầng nấc như thế, thì sẽ dễ tạo ra
các ách tắc hay hiện tượng bị nhiễu thông tin qua lại từ hai chiều, trên xuống
và dưới lên. Vì vậy để khắc phục, ngoài nguyên tắc thông tin theo thứ tự hệ
thống chiều dọc, còn phải có nguyên tắc thông tin theo chiều ngang. Và sự thắng
lợi của một tổ chức là tùy thuộc quyết định vào hệ thống thông tin mang tính
kiểm tra theo chiều ngang sau cùng đó.
Như vậy, bản chất của một hệ thống thông tin kiểu mới là người đứng đầu cao
nhất của một đơn vị, phải là người chịu trách nhiệm chính thường xuyên đến kiểm
tra và tranh luận trực tiếp đến mọi thành viên của tổ chức, theo một nguyên tắc
nhất định và bắt buộc. Để từ đó mới có đủ cơ sở xác minh các thông tin đến nơi
cần có được chính xác và thống nhất hay không. Và để từ đó truy ngược lại trách
nhiệm, xem nguyên nhân sai lệch thông tin nếu có, là do cá nhân nào chịu trách
nhiệm hay do chính cá nhân người phụ trách đại diện chung đó đã tạo ra thông
tin sai.
Thực tế cho thấy, trong các môi trường tổ chức xã hội ngày nay, các nhà lãnh
đạo tối cao thường thiếu điều kiện thăm hỏi và tranh luận trực tiếp với người
dân, bởi vô số lý do “hợp lý”. Tất cả chỉ bởi con người còn thiếu một cơ chế tổ
chức thích hợp, hay còn vì uy quyền một chiều có thể là nguyên nhân đã làm cho
con người “dễ thành xa nhau”. Hay do bản chất của ngôn ngữ cũ, ngôn ngữ B, chưa
có thể giúp đem lại lối thoát gì trong những tranh luận trao đổi như thế. Vì
thế, con người sẽ có thể suy ra cách sống..."việc ai nấy làm; tranh luận
và tranh luận vẫn mãi còn là chuyện nan giải của thế giới loài người từ bao đời!"
(?)
Vì vậy, trong môi trường tổ chức cũ, con người dễ đổ thừa lý do vì thiếu thông
tin hay do thông tin sai lệch, nên mới sinh hậu quả như đang xảy ra. Và điệp
khúc như thế vẫn được thường xuyên lập đi lập lại mãi từ thời gian này sang
thời gian khác, mà vẫn không sao xác định trong mỗi thời điểm đó cá nhân nào và
tại sao có sự ách tắt của các luồng thông tin như trên. Và tất yếu người đứng
đầu các tổ chức đó cũng rất hiếm khi đứng ra chịu trách nhiệm về những vấn đề
chưa có lối thoát như thế.
Ngoài ra, người đứng đầu đại diện trong một tổ chức mới còn là người chịu trách
nhiệm cuối cùng, lý giải mọi sự thưa kiện bất đồng ranh giới về lẽ phải giữa
con người với nhau. Bởi đó chính là một nhiệm vụ khó nhất của thời kỳ xây dựng
hòa bình.
Nếu nhiệm vụ kiểm tra chiều ngang tổ chức cũ chưa làm được, thì nhiệm vụ quan
tòa về phân lý phải trái trực tiếp giữa mọi người dân với nhau, lại càng nhiều
lần khó được thực hiện hơn.
Trong môi trường tổ chức cũ, nguyên tắc thông tin cơ bản được áp dụng thường là
thông tin một chiều, hay quyết định một chiều từ phía những người có quyền thế
rớt xuống. Chúng ta có thể gọi đó là nguyên tắc thông tin theo CHỦ NGHĨA MƯA
RƠI; có nghĩa là, người đề xuất thông tin có thể có rất nhiều nhưng quyền quyết
định thì chỉ thường dành riêng cho số ít người có quyền lực cao nhất.
Do đó, trong môi trường xã hội hiện nay, con người chỉ chú trọng đến tòa án một
chiều như một công cụ xử lý phải trái chính, giữa con người với nhau. Chúng ta
gọi đó là TÒA ÁN VẬT CHẤT. Tòa thường chỉ giải quyết được các vấn đề cụ thể rõ
ràng, đã có hậu quả, đã có nạn nhân, đã có những bằng chứng thực tế, v.v... Nếu
thiếu những yếu tố như thế, tòa sẽ trở nên lúng túng hoặc dễ bị xử sai lầm,
hoặc tòa không nhận xử.
Trong môi trường tổ chức mới, nguyên tắc thông tin cơ bản là hai chiều bình
đẳng, và quyền quyết định thuộc về người trực tiếp trong phạm vi các vấn đề
liên quan. Chúng ta có thể gọi đó là nguyên tắc thông tin theo CHỦ NGHĨA NẢY
MẦM; có nghĩa là mọi người đều có quyền kết luận trực tiếp trên phạm vị công việc
riêng của mình, trong một bối cảnh đã được tạo thuận lợi.
Do mọi người đều có quyền quyết định trên việc riêng hay chung, nên bắt buộc
mọi người phải tranh luận nhau về lẽ đúng sai, theo một nguyên tắc giao ước
nhất định nào đó để tìm kết luận. Khi sự tranh luận không đạt được kết quả, thì
ắt phải cần đến tòa án minh xử. Chúng ta có thể gọi đó là TÒA ÁN TINH THẦN hay
TÒA ÁN LƯƠNG TÂM.
Tòa án Tinh Thần có ưu thế hơn rất nhiều so với các tòa án Vật Chất, nhất là
trong Môi Trường Bình Thường. Tòa án Tinh Thần có trách nhiệm xét xử được tất
cả mọi sự cố gây ra bởi các quan hệ con người với nhau. Trong đó, quan trọng
hơn cả là các mâu thuẩn mới hình thành ở mức tranh lý phải hay trái, hay đã gây
hậu quả nhưng khó xác định được bằng chứng cụ thể, v.v..., đều có thể được giải
quyết hiệu quả bởi tòa án này.
Do trong môi trường tổ chức của ngôn ngữ A, mọi khái niệm sinh tồn của con
người đều được qui về cái tâm, và được diễn giải thành lý luận thông qua ngôn
ngữ, nên mọi cái tâm thiện hay ác có Hành Động và nhận thức đúng hay sai, đều
có thể được phân tích thành lý lẽ công khai và hợp lý. Nếu vi phạm điều ác hay
sai, thì tòa án không dùng hình phạt như tòa án vật chất, mà sử dụng chính vào
sự tự phán xét của tòa án lương tâm trong tinh thần của mỗi con người đó là chính.
Đây là một tòa án đặc biệt, vì nó rất ít tốn kém nhưng hiệu suất phân xử sai
phạm sẽ được nhanh chóng, chính xác, triệt để và kết quả đạt được cũng sẽ cao hơn.
Do đó, đây là cách ngăn ngừa hữu hiệu cái ác, đồng thời giúp bảo vệ và xây dựng
thành công cái thiện, trong quá trình hoàn thiện sự sống con người và xã hội.
Như vậy, sự thành công hay thất bại của tổ chức ngôn ngữ A sẽ còn tùy vào sự
đóng góp tích cực của các Tòa Án Lương Tâm trên. Nó có nhiệm vụ lý giải mọi mâu
thuẩn trong quan hệ con người với nhau, mà không phải vận dụng đến các biện
pháp trừng phạt bằng bạo lực dễ mang tính bất nhân. Sự hiệu quả của Tòa Án Tinh
Thần sẽ giúp con người từng bước hạn chế dần hình thức hoạt động của các Tòa Án
Vật Chất, để cuối cùng tất cả sẽ được giải quyết trên sự tin cậy, sự tự giác và
sự khoan dung giữa những con người cùng đồng loại với nhau, với một niềm tin
tuyệt đối vào qui luật phát triển nhân tính của con người, với tư cách là một
sản phẩm của tạo hóa.
Vấn đề trên cũng sẽ tùy thuộc rất nhiều vào các luật cấm được đưa ra có hợp lý
hay không, có quá thừa hay quá khó đối với mọi sự thật tự nhiên, đối với mọi sự
sống đời thường, hay tức là có cơ sở chứng minh khoa học dễ hiểu đối với mọi
người hay không, v.v... Hay ngoài ra, các luật trên có thể tạo thành một môi trường
sống mà trong đó mọi người dễ trở thành người lương thiện, người tốt, hơn là dễ
trở thành người xấu, người độc ác đối với mọi người hay đối với lương tâm họ
không.
Có như thế luật mới thông, mọi người mới dễ nhập tâm, và chúng mới có thể trở thành
chỗ dựa để mọi người đều có thể ngồi lại với nhau chủ động giải quyết hiệu quả
mọi vấn đề, không phải tốn công quanh co, giấu giếm, điều tra một cách phức tạp
và tốn kém, mà kết quả như luôn còn xa với yêu cầu thực tế.
Tóm lại, một mô hình tổ chức mới là một mô hình mà trong đó nghệ thuật tổ chức,
nghệ thuật thông tin và kiểm tra thông tin, nghệ thuật xử lý các mâu thuẩn thông
tin, các mâu thuẩn về nhận thức ranh giới lẽ phải, v.v... sẽ là những yếu tố
trọng tâm nhằm đem lại sự thành công và sự phát triển lâu dài cho mô hình tổ
chức tối ưu trên.
HẾT TẬP II (phần 5 và phần 6)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét