Thứ Tư, 2 tháng 5, 2012

A - BÚT KÝ NGÔN NGỮ A    (tập 1)





        LỜI TÁC GIẢ

Thế kỷ 20 đánh dấu sự phân chia địa chính trị thế giới thành hai khối: khối tư bản và khối cộng sản.
Lý thuyết của Mác-Lê một thời đã được nhiều nước trên thế giới ưa chuộng. Nhưng ngày nay tình hình trên đã bị giảm sút khá nhiều. Hơn nữa, hiện nay số nước còn phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, cũng đang vấp phải những vấn đề lý luận thực tiễn không ít, nó đã phần nào làm lu mờ đi sức hấp dẫn của chủ nghĩa khoa học ấy.
Ở Việt Nam, Đảng và nhà nước ta vẫn luôn kêu gọi mọi người dân tham gia góp ý để xây dựng nước nhà được sớm hùng cường và thịnh vượng.
Bằng những nghiên cứu thực tế theo quan điểm riêng của mình, tôi cho rằng để cho sự góp ý trên có thể đạt đến kết quả triệt để, chúng ta hãy bắt đầu tìm hiểu lại từ những nền tảng lý luận ban đầu của vấn đề, cơ sở để thiết kế nên mọi tương lai phát triển của một xã hội. Ở đây cơ sở đó chính là học thuyết Mác-Lê mà Đảng, Nhà Nước và toàn dân ta đang vận dụng từ những năm tháng còn kháng chiến chống giặc thực dân đến nay.
Để góp ý một vấn đề như vậy rõ ràng sẽ phải gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên với lòng thành và sự quyết tâm vì cái lợi chung, tôi tin rằng sự góp ý trên sẽ không bị khoác lên một dấu ấn thành kiến nào mà sẽ được xem như một sự góp ý công khai, khách quan và hữu ích.
Bản chất của một chân lý vĩnh cửu là không tùy thuộc vào quan điểm đánh giá của một người hay của một tập thể, hay của một thiểu số người, mà là của tất cả mọi người. Vì sự ích lợi của một chân lý vĩnh cửu là có lợi cho tất cả mọi người, chứ không dành riêng cho ai. Mọi người mới là chỗ dựa để nó được sử dụng lâu bền nhất, hiệu quả nhất, khắc khe nhất và cũng công minh nhất.
Sự góp ý trên của tôi được đúc kết thành một lý thuyết độc lập mang tên “Ngôn Ngữ A”, mặc dù nó được khai sinh ra từ chính các phương pháp luận của học thuyết Mác-Lê và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Bản chất của chân lý là khách quan. Vì vậy cho dù người đọc xét đoán Ngôn Ngữ A từ góc độ nào, nhưng tôi đều hy vọng qua đó mọi người sẽ có thể thống nhất với nhau về một điểm tương đồng nhất định, vì một định hướng phát triển chung tích cực cho tương lai xã hội loài người.












Phần I

KHOA HỌC TINH THẦN
1. ĐÀO TẠO CON NGƯỜI
Con người được sinh ra từ qui luật tiến hóa của thiên nhiên. Vậy đào tạo con người là đào tạo khả năng sống hòa nhập của mỗi con người vào quá trình vận động có trật tự và tiến hóa đó.
Con người sinh ra đã tự nhiên có nhu cầu được sống và được có hạnh phúc từ bản năng bẩm sinh. Vậy đào tạo con người còn là sự đào tạo về khả năng sống và hạnh phúc, không trái với các qui luật của thiên nhiên ấy.
Qui luật của tạo hóa hay của thiên nhiên áp dụng cho con người, phải chăng có nghĩa rằng: sự đi tìm sự sống và hạnh phúc của mỗi con người phải không là nguyên nhân gây nên sự mất khả năng sống và hạnh phúc của mọi người khác. Điều đó, phải chăng trong thời đại ngày nay đang còn là một vấn đề nan giải.
Sự nan giải trên đang được biểu hiện thông qua các hiện tượng bất ổn như: tội phạm, thất nghiệp, bất công, nghèo đói, áp bức, đau khổ, v.v... trong các xã hội văn minh ngày nay; để cuối cùng chúng gây thành những bất an trong đời sống riêng tư của mỗi người, cũng như của từng xã hội.
Vậy, đào tạo con người cũng là quá trình chứng minh từ khi nào và từ nguyên nhân nào, đã biến nhận thức và cách sống của con người trở thành có hại cho đồng loại, cũng như cho chính cá nhân họ.
Hay là nguyên nhân bắt đầu từ nơi bản chất sinh tồn của con người: nó có nhu cầu được PHÁT TRIỂN vô hạn, thông qua các ham muốn vô cùng tận của mỗi con người trước sự sống.
Tuy nhiên, vì tạo hóa sinh ra có người mạnh, có người yếu, có người đẹp, có người xấu, có người thông minh năng động, có người chậm hiểu thụ động, có người đã giàu, có người đã nghèo, v.v...; nên tất yếu sẽ tạo ra sự không đồng đều trong mức sống và trong khả năng cạnh tranh sinh tồn giữa mọi người trong cùng một cộng đồng xã hội với nhau. Từ sự không công bằng ban đầu đó sẽ tất yếu dẫn đến những không công bằng khác xảy ra về sau, trong đời sống cộng đồng nói chung.
Trong xã hội, nguồn của cải vật chất sản xuất ra bao giờ cũng có giới hạn, trong khi sự ham muốn của con người bao giờ cũng là một vô hạn. Vì lẽ đó, trong sự cạnh tranh sinh tồn lẫn nhau ấy, chắc chắn sẽ có những người đủ mạnh để thắng tất cả những người còn lại và thu gom về họ, một số lượng của cải vật chất vượt trội. Điều đó, hiển nhiên đã vô tình đẩy những người thiếu may mắn còn lại vào mức sống khốn cùng!
Kết quả là, với các mức sống khốn đốn như vậy, một bộ phận con người trong xã hội đã không còn đủ điều kiện để duy trì một mức sống cơ bản tối thiểu, mà tạo hóa đòi hỏi ở mỗi con người trong một môi trường sống nhất định.
Mặt khác, do qui luật tiến hóa của tạo hóa qui định về điều kiện sống cơ bản cho mỗi con người, có tính quyết định hơn mọi qui luật cạnh tranh sinh tồn khác của con người; nên số người bị bế tắc trước cuộc sống, sẽ ngẫu nhiên có thể chuyển hóa thành số người có sự sống phát triển tự phát, vô trật tự, gây nguy hiểm và bất lợi cho xã hội và cho chính cá nhân họ. Tất cả chỉ vì họ muốn tìm một mức sống tối thiểu cơ bản cho sự sinh tồn làm người, mà vì cớ gì đó đã bị cộng đồng cản trở!
Để tìm lời giải cho vấn đề trên...; con người sẽ khó có thể đạt đến thành công trọn vẹn nếu như bài toán lý giải về sự định hướng phát triển cạnh tranh sinh tồn giữa con người với nhau, sẽ đưa con người đi về đâu, chưa có một đáp án cụ thể và khoa học để làm điểm tựa vững chắc cho nó?
Đáp án cho vấn đề: phải chăng đó là sự định hướng các khả năng cạnh tranh sinh tồn giữa con người với nhau phải đồng thời vào cả hai hướng, hướng VẬT CHẤT và hướng TINH THẦN. Trong đó, hướng vật chất đáp ứng cụ thể nhưng có giới hạn trước các nhu cầu của con người, và ngược lại hướng tinh thần đáp ứng một cách trừu tượng và vô hình các nhu cầu của con người, nhưng tiềm năng của nó là vô tận.
Nhưng bằng cách nào để đưa sự cạnh tranh sinh tồn và phát triển của con người từ chỗ chỉ quen hướng về các mục tiêu hưởng thụ “hữu hình”, thì nay phải rèn luyện thêm khả năng hưởng thụ “vô hình”? Phải chăng đó là một bài toán cần được lý giải một cách cụ thể và khoa học, để mới mong đem lại một sự thay đổi cơ bản về chất cho sự sống con người trong thế kỷ 21.
Vấn đề đặt ra trên, mở đường giải thích cho sự đề xuất hình thành một ngành nghiên cứu khoa học mới: “NGÀNH KHOA HỌC TINH THẦN”. Đó cũng là nội dung trọng tâm của tác phẩm này, được trình bày lần lượt như dưới đây.
2. NGÀNH KHOA HỌC TINH THẦN
Trong xã hội hiện đại, sự cạnh tranh kinh tế thị trường đang ngày càng chiếm ưu thế. Tuy nhiên, song song với các diễn biến đó, xã hội con người còn có các hoạt động văn hóa tinh thần trừu tượng và vô hình khác, cũng đang cùng tồn tại và phát triển. Thực tế đó đã minh chứng, trong sự sống của con người xã hội hiện đại đang có hai mặt của một vấn đề, cùng tồn tại và phát triển song song với nhau một cách khách quan.
Trong lĩnh vực đời sống vật chất ngày nay, con người đã gặt hái được nhiều thành quả to lớn, thông qua sự thành công của con đường nghiên cứu khoa học. Nhưng ngược lại, trên lĩnh vực đời sống tinh thần, thì sự thành công của các nhà khoa học ngày nay phải chăng đang vẫn còn ở mức khiêm tốn. Điều đó, có phải là nguyên nhân dẫn đến sự bất ổn triền miên trong các xã hội văn minh hiện đại chăng?
Khoa Học Tinh Thần là một ngành khoa học được đề xuất để nghiên cứu toàn diện về đời sống tinh thần của con người. Nó hy vọng có thể tìm ra lời giải, cho sự phát triển chủ động của con người về mặt đời sống tinh thần được hoàn thiện nói riêng, và cho sự sống hạnh phúc của mọi đời người nói chung.
Để xây dựng cơ sở nghiên cứu và hình thành ngành Khoa Học Tinh Thần, tác giả sẽ không chọn cách định nghĩa “VẬT CHẤT” và “TINH THẦN” như là hai khái niệm mang tính cố định mà từ lâu nhiều người đã quen nghĩ và tâm niệm như vậy.
Mục đích sự sống con người là đi tìm khả năng tồn tại, phát triển và hạnh phúc, chứ không nhằm mục đích tranh cãi các ý nghĩa về thế nào là “vật chất” và thế nào là “tinh thần”. Vì thế, sự định nghĩa về chúng trong các nội dung tiếp theo sau đây, sẽ chỉ như là những phương tiện để góp phần làm sáng tỏ sự lý giải về “sự sống, con người và xã hội” là gì mà thôi.
Từ lâu trong cuộc sống, con người dễ nhận ra rằng, nhu cầu về đời sống vật chất và tinh thần là hai tiền đề ít nhiều có tính quyết định đối với sự sống của mỗi đời người.
Vậy, định nghĩa về vật chất và tinh thần sao cho đời sống vật chất và tinh thần của mọi người đều được nâng cao, thì sự định nghĩa đó nhất định sẽ mang tính đúng đắn vậy.
Trước mắt, cách định nghĩa đơn giản như sau: sự sống ưu việt của loài người, suy cho cùng, là lấy sự sống của sự VẬN ĐỘNG TRÍ ÓC làm trọng tâm. Ngày nào sự vận động trí óc của con người không còn được bình thường thì phải chăng, ngày đó, sự sống của số người đó sẽ trở thành vô nghĩa...
Vậy, ngành Khoa Học Tinh Thần lấy NỘI DUNG VẬN ĐỘNG TRÍ ÓC của mỗi con người, làm nền tảng và làm đối tượng chính để xây dựng nội dung nghiên cứu và định hướng phát triển cho ngành. Thông qua sự vận động của trí óc, con người có thể ý thức được sự tồn tại của mình và của thế giới xung quanh. Để cuối cùng qua đó, con người có thể suy ra, từ nguyên nhân nào, đã tạo cho con người có được một mức sống như hiện nay. Và sau đó, tùy mỗi người mà nghĩ ra cách khắc phục những khuyết nhược điểm và phát huy các ưu điểm, theo khả năng sống và nhận thức của mỗi người.
Nếu định nghĩa Tinh Thần là tất cả những hiện tượng vận động trí óc có bên trong não của một CÁ NHÂN, thì Vật Chất là tất cả những hiện tượng vận động xảy ra bên ngoài các hiện tượng vận động Tinh Thần ấy.
Nếu gọi não người có hai đặc tính vận động cơ bản: đặc tính của sự “vận động sinh lý” và đặc tình của sự “vận động trí óc”; thì đặc tính vận động đầu là thuộc về sự vận động Vật Chất, và đặc tính sau là thuộc về sự vận động Tinh Thần. Trong đó, sự VẬN ĐỘNG TINH THẦN là đối tượng nghiên cứu chính của Ngành Khoa Học Tinh Thần vậy.
Thế giới Vật Chất bên ngoài, dù lớn hay nhỏ ra sao, cũng cuối cùng đều có thể bị thu gọn lại để phán ánh vào não của mỗi con người, thông qua sự vận động Vật Chất và sự vận động Tinh Thần của não mỗi người đó. Trong đó, sự vận động Tinh Thần là nguyên nhân trực tiếp đã tạo nên sự sống CÓ Ý THỨC của CON NGƯỜI.
Nghiên cứu sự vận động Tinh Thần của não người, cũng có nghĩa là nghiên cứu BẢN CHẤT SỰ SỐNG CỦA CON NGƯỜI vậy.
Tóm lại, theo định nghĩa, bản chất sự sống của con người là thuộc về phạm trù Tinh Thần quyết định. Nghiên cứu chủ động được phạm trù Tinh Thần, thì con người sẽ có thể làm chủ được sự hình thành về cái thiện hay cái ác, về sự đau khổ hay sự hạnh phúc, v.v... xảy ra trong sự sống của mỗi con người hay của mỗi xã hội nói chung.
Đối tượng nghiên cứu của Ngành Khoa Học Tinh Thần là các hiện tượng vận động Tinh Thần hay Tinh Thần; tức là nghiên cứu tất cả những hiện tượng vận động Tinh Thần để tạo ra các sản phẩm Tinh Thần nhất định của mỗi người nói riêng, hay của cả một cộng đồng người nói chung.
Sản phẩm Tinh Thần của con người gồm có hai dạng: dạng QUAN HÊ GIỮA CON NGƯỜI VỚI VẬT CHẤT và dạng QUAN HÊ GIỮA CON NGƯỜI VỚI CON NGƯỜI. (GC: Vật chất ở đây có nghĩa, ngoài con người ra thì tất cả còn lại là vật chất).
Để nghiên cứu dạng sản phẩm thuộc về quan hệ giữa con người với Vật Chất, thì từ lâu nó thuộc về phần trách nhiệm nghiên cứu của các ngành khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, ứng dụng, v.v...; gọi chung là do các ngành của KHOA HỌC VẬT CHẤT phụ trách.
Để nghiên cứu dạng sản phẩm thuộc về các quan hệ giữa con người với con người với nhau, thì khoa học đã có các ngành như: khoa học xã hội, triết học, tâm lý học, v.v... đảm trách. Gọi chung, đó là các ngành thuộc về Khoa Học Xã Hội.
Từ góc độ nghiên cứu thực tế, tác giả cho rằng các ngành Khoa Học Xã Hội ngày nay đang còn thiếu một ngành khoa học đóng vai trò nghiên cứu quyết định đối với sự sống của con người hiện đại, đó là ngành khoa học chuyên nghiên cứu về CÁI TÂM CON NGƯỜI.
Vì tất cả sự sống của con người, dù đa dạng về cái thiện hay ác như thế nào cũng đều phải qui chiếu về một điểm, đó là “Cái Tâm Sống” của mỗi con người. Nghiên cứu được cái tâm, làm chủ được cái tâm sống của mỗi con người, thì phải chăng ngàn lần như một, loài người sẽ làm chủ được tương lai phát triển hạnh phúc của mình vậy.
Vậy, từ mục đích nghiên cứu Tinh Thần, Ngành Khoa Học Tinh Thần sẽ chọn trọng tâm nghiên cứu chính là “CÁI TÂM CỦA CON NGƯỜI”, trong quá trình sống của mỗi đời người. – Ghi chú: trong nội dung sau, cụm từ “Khoa Học Xã Hội” sẽ được thay bằng cụm từ “Khoa Học Tinh Thần”, để cho sự trình bày lý luận trong tác phẩm được suôn hơn.
3. CÁCH SỐNG
Để tìm nguồn gốc giá trị tinh thần của con người, con người đã mở ra nhiều hướng nghiên cứu khác nhau, bằng nhiều cách khác nhau; trong đó có các hướng như: triết học, tâm lý học, đạo đức học, di truyền học, v.v...
Tuy nhiên, khi con người còn chưa thống nhất được với nhau về vai trò và ý nghĩa của cái tâm là gì đối với sự sống con người, thì phải chăng mọi công sức nghiên cứu trên sẽ khó có thể hội tụ thành một kết quả thống nhất và hữu ích như mong đợi.
Chúng ta biết rằng, từ khi con người còn trong bào thai cho đến khi sinh ra và lớn lên, thì đồng thời cũng là lúc cách sống đặc thù riêng của từng con người cụ thể, đã được bám rễ hình thành bước đầu một cách ngẫu nhiên và bền chặt. Từ cái nền bám rễ đó, cách sống của mỗi con người được tác động để phát triển dần lên, để thành một quan điểm sống nhất định. Nó sẽ mang nội dung tốt hay xấu, thiện hay ác, tích cực hay tiêu cực, v.v...; điều đó tùy thuộc chính vào trách nhiệm của môi trường sống xã hội chi phối như thế nào đó đối với mỗi con người đó.
Cách sống ban đầu đó được hình thành vừa ngẫu nhiên, vừa tự nhiên theo bẩm sinh mỗi người. Nó có trước khi con người có ý thức, hay có khả năng tiếp thụ sự giáo dục bằng ngôn ngữ giao tiếp giữa con người với nhau.
Cách sống đó được phát triển tiếp nối liên tục, có hệ thống và theo một phương thức lô gíc “ngôn ngữ” của riêng nó, cho đến hết mỗi đời người. Con người sinh ra, lớn lên đều phải dựa vào cách sống đó để mà sống, sinh hoạt, làm việc, tồn tại, v.v... Nên không thể có bất kỳ kết quả hoạt động sinh tồn nào của con người, có thể nằm ngoài CÁCH SỐNG của riêng mỗi cá nhân đó.
Vì vậy, nghiên cứu làm chủ sự hình thành cách sống nơi mỗi con người, cần phải được xem như một chiến lược hàng đầu của quá trình đào tạo một con người, hay của các công trình nghiên cứu về đề tài con người và xã hội nói chung.
Cách sống là điểm tựa để tạo nên nhân cách của mỗi con người. Cách sống là một sự tổng hợp phức tạp của các cá tính khác nhau trong mỗi con người. Mỗi cá tính là một tập hợp khác của các thói quen về nhận thức, hành vi, tâm trạng, trạng thái, hành động, cảm xúc, v.v... của mỗi con người đó.
Thay đổi một thói quen đã là không dễ, thay đổi một cá tính sẽ vấp phải khó khăn gấp nhiều lần hơn. Như thế, sự thay đổi của cả một cách sống của một con người, sẽ có thể là một thử thách khó vượt qua đối với mỗi đời người vậy.
Muốn có một nhân cách tốt, thì con người phải có một cách sống tốt, cách sống của một con người có cái tâm cùng với một tấm lòng rộng mở v.v... Con người có thể phải thay đổi cách sống vì hoàn cảnh; nhưng chủ động thay đổi cách sống thành một cách sống có được cái tâm và tấm lòng, một cách khoa học, thì đó có thể là một thử thách vô cùng gian khổ.
Tất cả những khó khăn, trở ngại, phát sinh trong quá trình muốn có sự thay đổi trên, là đều có nguồn gốc từ một nguyên nhân: “THÓI QUEN”. Mỗi thói quen hành động là một tập hợp của nhiều thói quen chi tiết khác tạo nên. Mỗi thói quen tạo ra một lực quán tính; tập hợp các thói quen sẽ tạo thành một tổng lực quán tính: đó là nguồn lực tổng hợp chính của sức sống, từ hình thức đến nội tâm hay đến tâm hồn của mỗi con người. Người ta còn gọi đó là một nội lực được tạo ra từ cách sống riêng tư của mỗi con người đó.
Khi một nội lực được hình thành như là một nguồn lực chính để tạo nên sức sống của bản thân người đó, thì sự cạnh tranh thế chỗ của sự rèn luyện xây dựng từ một nội lực cũ thành một nội lực mới, sẽ không khác gì sự đối đầu sinh tử mang tính thay đổi sinh mạng của một đời người vậy.
Do đó để thay đổi một cách sống chưa “hoàn chỉnh” thành một cách sống “hoàn chỉnh”, là một việc làm hết sức khó khăn. Và vì thế, vấn đề tạo sẵn cho mỗi con người có một nhân cách, một cách sống tốt từ đầu, sẽ là một việc làm mang ý nghĩa lợi ích vô cùng to lớn cho mỗi đời người vậy.
Thế nhưng, ngày nay khoa học vẫn chưa chỉ ra được một sự đào tạo hữu hiệu nào, để có thể làm điểm tựa vững chắc cho sự hình thành ban đầu cũng như về lâu dài, một cách sống chuẩn mực cho mỗi đời người. Vì vậy, mỗi con người khi lớn lên đều phải tự... mò mẫm lấy cách sống của mình, theo những điều kiện, hoàn cảnh, khả năng hoàn toàn khác nhau của riêng từng người. Và kết quả dẫn đến ắt phải là một tỉ lệ ngẫu nhiên về sự hình thành số người thiện và số người ác, trong các xã hội của mỗi thời đại.
Khi xã hội xuất hiện các hiện tượng phức tạp về những mâu thuẫn thiện và ác, thì con người cũng tự phát dùng nhiều biện pháp mò mẫm khác nhau để khắc phục. Và cuối cùng, con người cho đến nay vẫn chưa tìm ra được một lời giải chuẩn nào, đủ khả năng lý giải triệt để cho các vấn đề thiện và ác trên.
Hiện tượng trên đòi hỏi, phải chăng đã đến lúc khoa học cần phải chủ động nghiên cứu quá trình hình thành, hay khả năng làm chủ cái tâm trong quá trình sống của mỗi đời người. Làm chủ được quá trình trên, thì phải chăng khác gì con người đã làm chủ được một qui trình công nghệ đào tạo thành công những con người hoàn thiện, rất cần thiết cho sự phát triển hòa bình và hạnh phúc lâu dài cho thế giới loài người văn minh và hiện đại.
Nó cũng không khác gì sự ngừa bệnh hơn trị bệnh. Bệnh nếu thiếu được ngừa bằng các vắc xin tương ứng, thì đến khi hậu quả lan thành dịch; mọi người sẽ vừa khó tránh, vừa nặng gánh tiêu trừ, nhưng có khi kết quả mang về, vừa rất tốn kém mà thành công cũng không còn trọn vẹn nữa.
4. MỨC SỐNG
Mục đích sự sống con người là đi tìm hạnh phúc. Hạnh phúc là gì? Thường trong thời đại ngày nay, con người hay lấy tổng số tài sản của một cá nhân đem qui ra thành tiền, để hình dung ra mức sống hạnh phúc của người đó.
Con người tính rằng, trị giá tài sản càng nhiều, thì mức sống hạnh phúc càng cao. Tuy nhiên, vì sự sống con người gồm hai mặt vật chất và tinh thần, nên cách tính như trên chỉ mới được một mặt, còn thiếu mặt tinh thần. Sự mất cân bằng trên sẽ biến ý nghĩa hạnh phúc của mỗi đời người dễ trở thành phiến diện, hình thức hay dễ bị hóa thành không thật, “không vui” hay không thành công.
Tuy nhiên, do khoa học ngày nay chưa có một định nghĩa thống nhất về thước đo thế nào là sự phát triển hạnh phúc của các mức sống tinh thần, nên con người dù có muốn cũng khó có thể nâng cao được mức sống tinh thần của mình lên. Biết rằng, mức sống tinh thần sẽ là yếu tố cơ bản tạo nên giá trị hạnh phúc thật của mỗi đời người, khi nó được kết hợp cân đối với một mức sống vật chất cơ bản tối thiểu.
Tuy chưa có một qui ước khoa học về thế nào là các mức sống tinh thần, nhưng vì đó là một nhu cầu thực tế trong cuộc sống, nên tùy mỗi con người, mỗi tập thể, mỗi xã hội đã định ra những thang giá trị tinh thần khác nhau để làm phương tiện quan hệ sinh tồn với nhau. Vấn đề được hiểu nôm na, là cách để đánh giá nhau về mức sống đạo đức trong quan hệ giữa con người với nhau là phải như thế nào cho đúng.
Kết quả là trong mỗi xã hội đều thấy xuất hiện nhiều loại chuẩn giá trị đạo đức khác nhau, nhưng chúng cũng có thể trở thành mâu thuẫn của nhau, phủ nhận lên nhau, để cuối cùng chúng có thể tạo thành các xung đột gây hậu quả cho nhau, chỉ vì chúng khác nhau về quan niệm thế nào là một đạo đức chuẩn cho mỗi con người.
Nếu giả định, loài người đã bỏ công ra xây dựng thành công một thang giá trị tinh thần chuẩn và khoa học, thì mọi người cứ dựa vào đó để suy ra sự quan hệ đạo đức của mình trong xã hội sao cho phải lẽ, thì tiện lợi biết bao nhiêu. Nó giúp con người tránh được các mâu thuẫn chủ quan một cách vô ích và phi lý, từ các hậu quả nặng nề của nó.
Ngày nay, do chưa lập được thang giá trị tinh thần chuẩn, hay đã có lập nhưng chưa được mọi người thống nhất công nhận, nên mọi người dễ cảm thấy không đồng ngôn ngữ trong tranh luận; ai đúng, ai sai, ai thiện, ai ác, ai là nguyên nhân, ai là nạn nhân, v.v...; để cuối cùng dẫn đến sự đổ vỡ trong quan hệ, trong mức sống tinh thần của con người và xã hội nói chung.
Để lập được thang giá trị tinh thần chuẩn và thống nhất, vấn đề không có cách nào khác hơn là khoa học phải tìm ra cách để đo mức sống tinh thần của mỗi người một cách khách quan. Phải chăng cách đo tốt nhất là: khoa học phải biết đo cái tâm sống của mỗi người. Mà cái tâm thì do vốn nhận thức của mỗi người về sự sống tạo thành. Vốn nhận thức thì do giáo dục và môi trường sống khách quan xung quanh của mỗi người tạo nên.
Vậy, khi nào khoa học làm chủ được sự giáo dục và môi trường sống khách quan của xã hội, thì sẽ lập được thang giá trị tinh thần thống nhất cho con người vậy. Muốn thế, khoa học phải hình thành ra một qui trình lý giải, sao cho có thể chứng minh được nguồn gốc vận động của các yếu tố trên đã gây tác động đến đời sống con người như thế nào. Biết được qui luật của các tác động trên, con người sẽ làm chủ được qui trình hình thành cái tâm con người. Có tâm, khoa học sẽ có thể xây dựng thành công thang giá trị tinh thần chuẩn mực vậy.
5. HƯỚNG NGHIÊN CỨU VÀ TÌM LỜI GIẢI
Qua các nội dung trên, chúng ta dễ dàng nhận thấy trọng tâm nghiên cứu của ngành Khoa Học Tinh Thần là nghiên cứu về cái tâm hay cách sống của mỗi con người. Muốn vậy, con người phải nghiên cứu khả năng làm chủ nguồn giáo dục và môi trường sống của con người nói chung, đối với mỗi người nói riêng.
Muốn làm chủ nguồn giáo dục, không đơn giản chỉ bằng cách thu tóm tất cả các trường học về một đầu mối quản lý, và qui định một chương trình giáo dục thống nhất và nghiêm ngặt là xong việc. Mà vấn đề chính là nội dung giáo dục đó phải như thế nào?
Nội dung giáo dục đúng nhất là làm sao người học phải say mê đi học, xã hội có bao nhiêu người thì phải có bấy nhiêu học viên sẵn sàng tham gia việc học tập. Nếu giả dụ như có ai đó muốn cản trở việc học, thì người đi học sẽ phải tìm cách vượt qua trở ngại để tìm đến cái học cho bằng được. Có như thế, sự nghiệp giáo dục mới thật gọi là thành công.
Chuyện kể, ngày xưa có nhiều gia đình cấm con cái tìm đến chùa học tu thành chánh quả; nhưng dù đã bị cấm thế nào, mà người muốn học đã quyết chí thì người cấm cũng đành chịu. Hay kể rằng, xã hội ngày nay, mọi người ra sức ngăn cấm tệ nạn xì ke ma túy nơi học đường, ngoài xã hội, v.v... thế nhưng người tìm đến căn bệnh nghiện này như vẫn chưa thuyên giảm!?
Cái nghiệp học ngày nay phải có sức thu hút tương tự như trên, nếu không nói phải còn có sức hấp dẫn hơn thế nữa, thì mới chắc chắn đánh bại mọi nguy cơ bất lợi từ trong trứng nước.
Khi con người đã làm chủ được sự giáo dục, thì ắt con người sẽ làm chủ được môi trường sống. Bởi khi con người bị hút về một cực nhận thức, thì mọi lực hút khác ngoài xã hội sẽ trở thành thứ yếu, và sẽ bị vô hiệu hóa dần bởi sức cạnh tranh hấp dẫn mạnh hơn của cực chính. Như thế, cái mới thay thế cái cũ, cái tốt thay thế cái xấu, môi trường sống sẽ chuyển dần về hướng chủ động và tích cực theo thời gian, phù hợp với ước vọng của con người và xã hội.
Như vậy, nội dung giáo dục phải là trọng tâm nghiên cứu số một của xã hội hiện đại, nếu như con người muốn xây dựng một tương lai phát triển toàn diện, hòa bình và hạnh phúc vững bền. Hay phải chăng, đó cũng là qui luật phát triển tất yếu của xã hội loài người, trong qui luật phát triển chung của tạo hóa.
Ngôn ngữ là phương tiện giáo dục chính của loài người. Không có ngôn ngữ thì loài người sẽ không có văn minh, không có mọi khái niệm sinh tồn như ngày nay.
Như chúng ta đã biết, sự vận động Tinh Thần của con người bao hàm hai hướng phát triển: hướng phát triển Vật Chất thì thuộc về Khoa Học Vật Chất, và hướng phát triển Tinh Thần thì thuộc về ngành Khoa Học Tinh Thần (GC: KH vật chất: KH tự nhiên, KH Kỹ thuật, v.v...; KH Tinh Thần: KH xã hội, triết học, v.v... và Giáo Dục Tinh Thần)
Nội dung giáo dục là một tổng thể thống nhất. Theo định nghĩa đó, chúng ta suy ra, Giáo Dục Tinh Thần là một môn giáo dục tổng kết toàn diện, hoàn chỉnh và tốt nhất cho sự phát triển cái tâm, hay cũng như cho khả năng làm chủ tương lai hạnh phúc của mỗi đời người.
Hay Giáo Dục Tinh Thần, là một môn học đúc kết toàn diện ý nghĩa của các nhận thức về Khoa Học Vật Chất và Khoa Học Tinh Thần của con người. Tức là nó lý giải mọi vốn kiến thức mà mỗi người có thể học tập được, để có thể xây dựng một mức sống thành công cho mình và cho mọi người, trong một môi trường xã hội hiện tại và cả trong tương lai nói chung.
Như vậy, Giáo Dục Tinh Thần, bản thân nó nên là một môn học trong nhà trường. Nó cho phép con người học cách nhìn toàn diện và đầy đủ về sự sống, để hiểu và để có thể tự tạo cho mình một vốn sống hay một vốn Tinh Thần tích cực nhất, có ích cho sự sống cá nhân nói riêng và cho xã hội nói chung. Để từ đó, nó sẽ trở thành nhân tố quyết định nhất, cho sự hình thành cái tâm sống tích cực và hạnh phúc nhất của mỗi con người.
Tóm lại, ngành Khoa Học Tinh Thần (KHTT) là ngành nghiên cứu về các quan hệ giữa con người với nhau, trong đó bao gồm các ngành học như các ngành đã có trong Khoa Học Xã Hội ngày nay, và có cộng thêm môn học “Giáo Dục Tinh Thần” (GDTT). Nó có nhiệm vụ đúc kết lại ý nghĩa của mọi nhận thức của con người về Vật Chất và Tinh Thần là gì, đối với sự sống của mỗi đời người. Do mọi nhận thức của con người đều nằm trong Tinh Thần, vì thế con người nên cần có một môn học chung như vậy. (GC: môn GDTT là tổng hợp nhất, nhưng lại nằm trong ngành KHTT bộ phận).
Để lập quan hệ giữa người này với người khác, trước tiên mỗi người phải tự quan hệ với chính mình. Quan hệ với chính mình là quan hệ giữa một bên, các nội tâm thầm kín và bên kia là các ý muốn tức thời của mỗi người trước các tác động khác nhau của cuộc sống.
Nhận xét vấn đề, chúng ta thấy rằng cái thiếu nhất của xã hội ngày nay là môn học về GDTT, là môn học về cách sống, về cái tâm, về tổng số lượng nhận thức trí tuệ mà mỗi cá nhân con người cần có. Để từ đó, mỗi người mới có thể hiểu ra, từ khi nào và từ nguyên nhân nào đã làm cho con người trở thành người xấu hay tốt, người thiện hay ác, người vui sống hay buồn chán, người hạnh phúc hay đau khổ, v.v...; và bằng cách nào có thể điều chỉnh các kết quả đó một cách tích cực nhất, nếu như nó đang gây bất lợi cho sự sống con người.
GDTT là môn học lý giải tất cả các kiến thức có trong sự sống, hay về tất cả các nguyên nhân có thể làm ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách của một con người. Nếu con người được học môn này, thì khi bước vào cuộc sống sẽ cảm thấy an tâm, tự tin và thành công hơn. Vì tất cả những gì sẽ xảy đến trong sự sống một đời người đều sẽ được nghiên cứu, học tập và tổng hợp đầy đủ trước tại môn GDTT này.
So sánh với cách học ngày nay, người học sinh học rất nhiều và không kém vất vả, nhưng vẫn không biết cái học sẽ dẫn con người đến hạnh phúc nào, cuộc sống của họ sẽ đi về đâu? Một câu hỏi khó trả lời cho bất kỳ học sinh nào, bởi chính khoa học ngày nay cũng chưa xác định được tương lai của loài người sẽ phát triển về đâu...?!
Vấn đề trên đối với bậc đại học trả lời đã thấy khó, học sinh các lớp trung, tiểu học trả lời càng khó hơn. Vậy tổng cộng những công sức học tập mà con người đã bỏ ra đó, bao nhiêu là đủ, là thiếu, hay bao nhiêu là thừa. Vị chi phí phạm sức người và sức của đối với mỗi đời người, đối với xã hội là bao nhiêu? Nếu tính xa hơn, đối với thành quả mức sống phát triển của mỗi thế hệ, mỗi thời đại bị kéo chậm lại, gây bất lợi cho đời sống con người ra sao? v.v...
Đó là những bài toán thực tế, mà từ lâu con người còn chưa tính sổ để tìm ra sự thiệt hơn cho hợp lý. Đó phải chăng là nguyên nhân đã gây cho con người và xã hội những mất mát về quyền được hưởng một chất lượng sống cao hơn, với những niềm tin và cảm xúc sống hạnh phúc trọn vẹn hơn, mà tạo hóa vốn đã dành cho loài người như thế, như một tất yếu của tự nhiên vậy.
Bởi tất cả chỉ vì loài người còn thiếu một ngành khoa học: nghiên cứu toàn diện về chất lượng sống của mọi đời người, trong mỗi hoàn cảnh đặc thù được sinh ra. Hay vì con người đã quen không tin rằng: khoa học khó có thể nghiên cứu và xây dựng thành công một tương lai công bằng, bình đẳng và hạnh phúc, cho tất cả mọi người trên hành tinh trái đất này?!
Đó là tất cả những vấn đề được đặt ra để môn học GDTT phải có trách nhiệm giải đáp cho con người, cho nhân loại nói chung.




Phần II

GIÁO DỤC TINH THẦN
1. MÔN HỌC TỔNG HỢP
Đầu tư kinh doanh thì nhiều mà không tính được lãi lỗ, thì kết quả sẽ tất yếu phiêu lưu, mười phần hết chín là phá sản.
Sự sống làm người cũng vậy. Ai cũng ham sống, ai cũng muốn lao vút thật nhanh về phía trước, nhưng hỏi ra tiến về đâu, tiến về mục tiêu nào, để làm gì, tính tổng kết cuối đời lãi lỗ ra sao, v.v...? Thường người ta ít ai chú ý tìm hiểu những câu hỏi như vậy trước khi tuổi già.
Có người không muốn tính, có người không dám tính, có người không biết tính ra sao, hay mới nghe câu hỏi đó lần đầu trong đời nên không hiểu phải nghĩ ra sao và không biết hỏi như thế có ích lợi gì, bởi lẽ dòng đời cứ vậy mà trôi kia mà!?
Nhưng sự thật cũng có người biết tính, nhất là khi tuổi đã về già, sức người đã kiệt, thì mười người hết chín rưỡi tính ra đều thấy... lỗ. Có người “lỗ” ít, nhưng đa số “lỗ” nhiều, còn lại tính thấy “lời”. Một là vì tính lộn, hai là cố tình tính cho nó ra “lời”, ba là những người lấy công làm “lời” thì chắc chắn có “lời”, v.v...
Nếu thỉnh thoảng trao đổi một vài món đồ, bán một ít trái cây, thì việc tính lãi lỗ không cần được đặt ra. Tương tự, nếu con người chỉ sống đơn giản như người cổ xưa, chỉ biết tìm thức ăn để sống, thì chẳng có vấn đề gì nhiều phải tính.
Nhưng con người ngày nay có đời sống rất đa dạng, tiện nghi vật chất dồi dào và... hạnh phúc; thế mà trong khi đó vẫn còn thấy có nhiều người cảm thấy rất khó sống! Đó phải chăng là một nghịch lý? Vì lẽ đó, con người cần phải có một ngành học để tính sổ lại tất cả về, “thế nào là sự sống của một con người?”.
Xã hội loài người ngày càng văn minh và hiện đại, điều đó chứng tỏ xã hội đã có “lời”. Thế nhưng tại sao con người sống trong xã hội đó không tìm thấy hạnh phúc, vậy những cái “lời” kia chạy về đâu?
Sự thật mỗi con người trong thời đại văn minh đều được chia một phần “lời” nhất định, thế nhưng họ vẫn cảm thấy như luôn bị “lỗ” trước cuộc sống? Đó là vì con người còn thiếu một khả năng: khả năng hấp thụ những cái “lời” đó và biến chúng thành những giá trị hữu ích cho mỗi đời người. Có người sống giữa kho vàng mà vẫn phải chết vì khổ, là vì thiếu khả năng đó vậy. Hay tại thiếu “khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”!
Vì vậy, ngày nay hơn lúc nào hết, cần có một môn học tổng hợp để giúp đúc kết toàn diện về sự sống của con người, và tìm ra những lời giải đúng đắn, cần thiết cho một tương lai phát triển tốt đẹp hơn của xã hội loài người.
Trong xã hội ngày nay, nhiều người rất khen mức sống hiện đại thật là thú vị và hạnh phúc. Nhưng số khác thì lại cho là nó đang bị xuống cấp về đạo đức, quan hệ con người trở nên lạnh nhạt và máy móc hơn, hay nó không còn thi vị và giàu ý nghĩa như xưa nữa.
Giữa khen và chê, khoa học phải chọn cái xấu để khắc phục, tìm cái khen để đề cao phát huy, và chứng minh giữa chúng có mối quan hệ nhân quả ra sao. Mục tiêu cuối cùng của khoa học là đúc kết và phát hiện ra các qui luật vận động của các hiện tượng tự nhiên ấy, để qua đó, con người có thể vận dụng vào mục đích cải thiện đời sống của con người.
Tin rằng trong quá trình nghiên cứu sự liên hệ giữa hai hiện tượng khen và chê trên đây, con người sẽ tìm thấy được những qui luật vận động của sự sống và biết cách vận dụng nó, sao cho mọi người sẽ không còn ai chê đời sống văn minh của loài người hiện đại là chưa được như ý nữa.
Sự phát triển của khoa học ngày nay như chỉ mới vạch cho con người kỹ năng xây dựng các nhà cao tầng lộng lẫy, nhưng chưa biết chỉ cho con người kỹ thuật tính tổng trọng lượng ngôi nhà so với sức chịu lực của nền móng xây nên nó. Vì vậy, trước các nền đất khác nhau, con người không biết phải xây nhà cao bao nhiêu là vừa, nếu muốn xây cao hơn nữa thì phải làm gì? Hay tất cả phải trông chờ vào sự may nhờ, rủi chịu?
Bởi thế, khi con người chỉ biết thi nhau xây nhà thật cao, thật chắc, thì đồng thời độ lún đất cũng bắt đầu nguy hiểm dần, như chỉ chờ ngày tất cả sẽ bị đổ sụp xuống thành... gạch vụn, như một sự công phá của quả bom nguyên tử ngày nào!
Sự thiếu hụt kỹ năng sẽ giống như con người muốn tiến về giấc mơ hạnh phúc cao nghệu, nhưng lại quên không biết giấc mơ đó phải được bắt đầu xây dựng từ đâu, thì chiều cao phát triển mới không bị giới hạn. Nếu thiếu sự bắt đầu ấy, thì xây lâu đài hạnh phúc càng cao bao nhiêu, sẽ càng chứng tỏ giá trị hạnh phúc càng có nguy cơ vô nghĩa bấy nhiêu!
Đó là một giả thiết. Chúng ta sẽ lý giải nó bằng công trình nghiên cứu sau đây, về nền móng tinh thần đối với sự sống toàn diện của con người là gì? Và nếu khi con người không biết tính đến sự hiện diện của nó, thì hậu quả gì sẽ xảy ra?
2. CƠ CHẾ TỒN TẠI CỦA TINH THẦN
Mọi sự sống của mỗi người bình thường đều phải gắn liền với một cơ chế vận động Tinh Thần nhất định của người đó. Khi con người còn sống, thì cơ chế đó luôn vận động không ngừng; khi nó ngừng, thì cũng có nghĩa như người đó đã chết vậy.
Cơ chế Tinh Thần của mỗi con người vận động dưới hai hình thức: Ý THỨC và VÔ THỨC. Ý thức là mọi sự vận động Tinh Thần của con người đều có thể nhận biết được. Ví dụ như: đang suy nghĩ, tư duy, làm việc, nói chuyện, cảm giác đang buồn, vui, v.v... Ngoài ra, Tinh Thần con người còn một sự vận động vô hình khác mà bản thân trí óc của mỗi người không sao có thể hay biết được, nhưng nó lại là một vế vô cùng quan trọng để tạo nên giá trị Tinh Thần của một con người, đó là sự vận động của Vô Thức.
Như đã định nghĩa từ đầu, sự vận động Tinh Thần của mỗi người là sự tổng hợp toàn diện nhất, mọi hiện tượng vận động trí óc của não bản thân người đó một cách triệt để nhất. Kết quả của sự vận động đó, chỉ có bản thân người đó mới có thể cảm nhận đầy đủ nhất, còn ngoài ra không thể có người thứ hai bất kỳ nào khác có cùng sự nhận biết tương tự.
Do đó, muốn nghiên cứu thành công một hiện tượng vận động Tinh Thần nào, thì chỉ có bản thân người đó mới có đủ điều kiện nhất, để thực hiện một cách hiệu quả nhất sự nghiên cứu đó, nhằm tạo ra một giá trị Tinh Thần phát triển theo một hướng tích cực và lương thiện nào đó. Bên cạnh đó, khoa học sẽ là người trợ giúp các phương tiện, các điều kiện, các phương pháp luận, v.v... để mỗi người có thể thành công với nguyện vọng của mình.
Bản chất của sự vận động phát triển Tinh Thần của con người chỉ có một, nên nó giống nhau với tất cả mọi người, đó là vì SỰ SỐNG và SỰ HẠNH PHÚC CỦA CON NGƯỜI. Mọi sự vận động sai với bản chất Tinh Thần của con người, đều sẽ dẫn đến những hiện tượng tiêu cực về Tinh Thần một cách đa dạng và phức tạp, mà hậu quả cao nhất là con người có thể tự hủy hoại sinh mệnh của chính mình hay của đồng loại mình.
Nghiên cứu cơ chế tồn tại của Tinh Thần con người, là bước mở đầu hình thành chiếc chìa khóa giải cứu cho vấn đề “CON NGƯỜI” một cách hiệu quả và triệt để nhất; bởi đó là sự tập trung nhất mọi bản chất tồn tại của con người.
Trong cơ chế vận động Tinh Thần của con người thì hiện tượng vận động vô thức, là đối tượng nghiên cứu trọng tâm nhất và khó nhất. Vì bản chất sinh tồn của con người, suy cho cùng, là do sự vận động điều khiển bởi vô thức là chính, nhưng nó lại luôn nằm ngoài sự tác động chủ quan và trực tiếp có ý thức của con người.
Mỗi con người sinh ra và lớn lên đều chọn cho mình một mục đích sống cụ thể khác nhau, và mỗi con người cũng có cách xử trí khác nhau để đạt đến mục đích đó, tùy theo khả năng và hoàn cảnh đặt ra cho thực tế cuộc sống của mỗi người. Mỗi xử trí như vậy đều phải chịu sự điều khiển nhất định nào đó của sự vận động vô thức, có trong tư duy của mỗi người đó.
Ví dụ, cách sống người Việt khác cách sống của người Hoa, người Nhật, người Mỹ, v.v... Cách làm, cách nói chuyện của anh A cũng khác với cách của anh B, v.v...Cái gì tạo nên một hệ thống khác biệt giữa các đối tượng trên? Tại sao không có người này sống và sinh hoạt giống trùng lấp với người kia được, cho dù họ rất muốn đi nữa?
Khoa Học Tinh Thần gọi hiện tượng trên là do sự vận động vô thức của con người chi phối, hay nói cách khác là do TRUNG TÂM VÔ THỨC của mỗi người chi phối và điều khiển.
3. TRUNG TÂM VÔ THỨC
Từ ví dụ trên chúng ta suy rộng ra, Trung Tâm Vô Thức là nguyên nhân trực tiếp hậu thuẫn cho sự hình thành ra CÁCH SỐNG của mỗi người. Cách sống là nguyên nhân hậu thuẫn trực tiếp, tạo ra NHÂN CÁCH của mỗi con người.
Nhân cách càng cao, chứng tỏ giá trị sự sống của người đó càng có ý nghĩa; nhân cách càng thấp, thì sẽ trở thành có hại cho xã hội và cho chính bản thân người đó.
Muốn xây dựng nhân cách thành công nói chung, phải chăng con người cần nghiên cứu về sự chi phối của Trung Tâm Vô Thức đối với đời sống con người ra sao: “sự sống mà thiếu hiểu biết về Trung Tâm Vô Thức thì ví như, tồn tại mà thiếu định nghĩa hạnh phúc đời người là gì vậy!”
Sự vận động của Trung Tâm Vô Thức là luôn nằm ngoài tầm suy nghĩ của con người. Do đó, để lý giải mọi nguyên nhân hành vi tốt hay xấu trong cuộc sống đời thường, con người hay nghĩ là do thần linh, quỷ dữ xui khiến hại người, hoặc là do người đó tích cực hay thiếu tích cực trong rèn luyện bản thân, v.v... nên dẫn đến kết quả thất bại trong cuộc sống.
Lịch sử phát triển xã hội loài người đã chứng minh, dù ở giai đoạn lịch sử nào xã hội vẫn luôn có hai đối tượng người: một ngả về cái thiện và một ngả về hướng cái ác. Những cái ác, cái thiện đó đến tận thời đại ngày nay vẫn còn tồn tại. Hơn nữa, sự tồn tại song hành đó như là một tất yếu hiển nhiên, mà có lẽ khó có ai có đủ chứng cứ để tin rằng, một ngày kia cái ác sẽ bị mất đi vĩnh viễn trong xã hội loài người?
Vậy, nguyên nhân vấn đề, phải chăng là do con người chưa có một nghiên cứu đầy đủ về sự tồn tại và sự tác động của Trung Tâm Vô Thức đối với đời sống con người là như thế nào? Do đó, con người dễ sinh chủ quan, cứ ỷ lại vào sức mình mà tiến mạnh, để cuối cùng bị biến thành... ác, thành người xấu khi nào không hay. Khi đó mọi sự hối cãi như đều đã muộn màng!
Nếu nay con người nghiên cứu thành công cơ chế hình thành của Trung Tâm Vô Thức, thì tin rằng một ngày kia cái ác sẽ không còn đến với loài người nữa.
Tinh Thần là một tổng thể vận động thống nhất của hai trung tâm: TRUNG TÂM VÔ THỨC và TRUNG TÂM Ý THỨC. Trung Tâm Ý Thức, như trên chúng ta đã được định nghĩa, là bao gồm những hiện tượng xảy ra từ bên trong các vận động của trí óc mà bản thân người đó có thể trực tiếp cảm nhận được hay cảm thấy được. Còn ngược lại, sự vận động của Trung Tâm Vô Thức là hoàn toàn nằm ngoài khả năng hay biết của mỗi người. Khoa Học Tinh Thần giả định, sự hiện hữu của vô thức được biết thông qua các hiện tượng cách sống có hệ thống đặc thù khác nhau của mỗi con người trước mọi người, hay trước thế giới xung quanh.
Nghiên cứu phương pháp làm chủ Trung Tâm Vô Thức, tức là nghiên cứu tạo cho con người có khả năng lý giải thành công mọi hiện tượng sinh tồn đa dạng và phức tạp nhất của con người trong cuộc sống.
Khi con người sống và sinh hoạt dưới bất kỳ hình thái nào, thì có nghĩa, Tinh Thần cũng vận động như là một bản sao y của mọi động thái đó. Khi Tinh Thần động, thì đồng thời cả hai trung tâm kia cũng đều động theo. Tất cả chúng vận động dựa trên một nội dung có ý nghĩa thống nhất nào đó, được tạo ra bởi sự vận động Tinh Thần của một cá nhân nhất định.
Do bản chất Tinh Thần là luôn động khi con người còn sống, vậy nên con người luôn phải cung cấp cho nó những nội dung Tư Duy Ý Thức nhất định, để cho nó được liên tục vận động (GC: gọi “Tư Duy Ý Thức” là một đơn vị vận động, trong tổng vận động có ý thức của Trung Tâm Ý Thức). Khi có một Tư Duy Ý Thức hoạt động, thì bao giờ cũng có một đơn vị Tư Duy Vô Thức thích ứng cùng song song vận động theo. (GC: gọi “Tư Duy Vô Thức” là một đơn vị vận động, trong tổng vận động vô thức của Trung Tâm Vô Thức).
Tất cả chúng vận động theo một cơ chế trình tự như sau: khi não của một người được sinh ra và lớn lên chưa biết độc lập suy nghĩ, thì Tư Duy Vô Thức sẽ tự hoạt động trước để ghi nhận mọi hiện tượng tồn tại của cá nhân đó, dưới hình thức các ký mã hiệu đặc trưng của riêng nó.
Khi con người bắt đầu lớn thêm, từng bước có nhận thức về thế giới xung quanh, điều đó có nghĩa sự phát triển của não đã có thêm Trung Tâm Ý Thức hoạt động. Trong khi đó, Trung Tâm Vô Thức vẫn liên tục vận động, nhưng ghi nhận thêm phần bổ sung từ các hoạt động của Trung Tâm Ý Thức vừa mới được phát triển sau nó.
Các hoạt động như trên được phát triển mãi đến khi con người trưởng thành và già chết. Khi Tinh Thần hoạt động, hai trung tâm trên hoạt động theo cách, ghi lại các hiện tượng nội dung nào được lặp đi lặp lại nhiều lần, thì sẽ được đúc kết thành cái gọi là THÓI QUEN của nội dung đó. Để sau đó, từ các thói quen đó, các trung tâm sẽ dùng để điều khiển ngược trở lại các tư duy, suy nghĩ, ý muốn, v.v... của con người.
Tập hợp các thói quen sẽ hình thành được một nội dung thói quen thống nhất, gọi là TÂM THÓI QUEN. Trung Tâm Ý Thức có Tâm Thói Quen riêng được đặt tên là TÂM B, và tương tự Trung Tâm Vô Thức có TÂM A. Giữa hai tâm luôn có mối quan hệ mật thiết keo sơn với nhau.
Khi Tâm B hết nội dung hoạt động, thì Tâm A sẽ cung cấp cho B một cách tự động, ngoài khả năng chi phối hay can thiệp của con người, bằng những nội dung thói quen mà nó đã tích lũy được từ trong quá trình hình thành bào thai cho đến tuổi lớn của thời điểm lúc bấy giờ. Và hơn thế nữa, mỗi khi B đang hoạt động bất kỳ, thì A vẫn liên tục “cố vấn” B theo “quan điểm” riêng của nó.
Đến đây, chúng ta hãy gọi Tâm B hay B, thế cho Trung Tâm Ý Thức, và gọi Tâm A hay A, thay cho Trung Tâm Vô Thức. Lúc này A và B đã thành là hai đại diện quan điểm sống của mỗi con người, để tiếp nhận hay phản hồi lại những nội dung xảy đến từ nhiều hướng, trong quá trình sống của mỗi con người.
Mỗi Tâm A và Tâm B đều có những nội dung tư duy riêng và cho ra những kết luận riêng, mỗi sau khi chúng nhận được những nội dung thông tin từ phía kia gởi đến. Để cuối cùng, một kết luật đại diện cho hai tâm trên sẽ được chọn ra để gởi đến một TRẠM TRUNG GIAN và cho thoát ra khỏi môi trường Tinh Thần, đi vào môi trường Vật Chất bên ngoài; nơi đó có tất cả, có mọi người và có các hành động của chính cá nhân đó. Trạm Trung Gian được gọi là TRẠM 1 hay 1.
Trạm 1 có nhiệm vụ nhận một trong hai kết luận trên, để giới thiệu ra ngoài. Kết quả chọn lựa đó được tạo ra bởi sự đấu tranh giữa cái đúng và cái sai, giữa hai quan điểm của A và B. Về nguyên tắc, A sẽ luôn thắng B; nhưng trên thực tế, do một số điều kiện khách quan tác động và đồng thời cũng do ý muốn chủ quan của B mạnh mẽ, nên tạo cho B có thể thắng được A trong một giai đoạn nhất thời hay trong một số trường hợp nhất định. Nhưng sau đó, nếu xét về lâu dài, xét trên phạm vi rộng toàn cục, thì A luôn thắng B. Tức là Vô Thức LUÔN THẮNG Ý Thức.
4. NỘI DUNG TƯ DUY
Như đã định nghĩa trong chương trước, từ Tư Duy ở đây không hoàn toàn mang nghĩa của một nhận thức cao cấp như trong tự điển tiếng Việt đã định nghĩa, mà nó có nghĩa khái quát hơn. Ví dụ, trong trí óc con người thường khi rảnh rang, nó vẫn suy nghĩ miên man không theo một nội dung nào cụ thể, không theo một yêu cầu nào cụ thể, v.v..., thì đó cũng được gọi là Tư Duy theo nghĩa như một đơn vị tồn tại của Tinh Thần.
Giả thiết rằng, khi Tinh Thần hoạt động, thì nhất định Tâm B phải được cung cấp một nội dung Tư Duy nhất định để nó lấy đó làm điểm tựa cho vận động. Vậy, chúng là những nội dung gì và được cấu tạo nên như thế nào?
Nội dung đầu tiên là những “cảm xúc” như: bình yên, nhẹ nhàng, xáo động, khó chịu, v.v...; sau đó chúng được phát triển lên thành các “ngôn ngữ” như: lời nói, chữ viết, tác phẩm, v.v... Chúng được sinh ra từ môi trường của bản thân nó, và của từ ngoài tác động vào.
“Nội dung” có thể gây ảnh hưởng nhiều đến sự hình thành NHÂN CÁCH HÌNH THỨC, trong quan hệ hình thức hay NHÂN CÁCH GIAI ĐOẠN của con người, là thuộc về nội dung chi phối của các NGÔN NGỮ. “Nội dung” có tính quyết định đến sự hình thành NHÂN CÁCH BẢN CHẤT của con người, thì thuộc về nội dung của các CẢM XÚC chi phối.
“Nội dung cảm xúc” có trước từ A, sẽ thuộc về trạng thái bình yên dễ chịu, nên phù hợp với nội dung CHÂN, THIÊN, MỸ và HẠNH PHÚC. Nó được tạo ra tự nhiên từ khi con người còn trong bào thai, hay có thể nói, nó thuộc quyền sở hữu của thiên nhiên, mà mọi con người đều được thừa hưởng từ khi mới chào đời.
“Nội dung ngôn ngữ” có sau từ B, do con người tạo ra và được phát triển đến đỉnh cao dưới dạng các hệ thống lý luận công phu. Chính nội dung từ B, là thủ phạm chịu trách nhiệm chính, gây ra sự mất bình yên và mất hạnh phúc trong sự sống con người, mà trước tiên nó gây ra tại A.
Như thế, đầu mối giải quyết các hiện tượng “bất ổn” trong đời sống xã hội văn minh, là phải thuộc về trách nhiệm của các nội dung nhận thức lý luận bằng ngôn ngữ tại tâm B của con người gây ra. Hay chúng ta có thể suy ra: nếu con người muốn sống không còn đau khổ và bế tắc để tiến lên một cuộc sống hạnh phúc toàn diện và tốt đẹp hơn, thì con người phải tìm cách sửa đổi các nội dung lý luận mà con người đã sai lầm tạo ra tại B.
Nội dung lý luận do con người tạo ra nếu đúng, thì được gọi là LẼ PHẢI hay CHÂN LÝ. Nó có đặc tính phù hợp với nội dung cơ bản, BÌNH YÊN và HẠNH PHÚC, đã được khẳng định từ bẩm sinh tại cảm xúc ban đầu của A (cảm xúc nguyên thủy).
Vấn đề đặt ra là, nếu vậy thì từ khi nào và tại sao nội dung lý luận của con người trong phạm trù quan hệ với nhau được phát sinh tại B lại bị sai, dẫn đến vốn nhận thức của con người sai theo và sau cùng dẫn đến hành động sai gây hậu quả mâu thuẫn đối kháng, làm mất môi trường sống hòa bình và hạnh phúc giữa con người với nhau?
5. SỰ SAI LẦM NGUYÊN THỦY
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, tổ tiên loài người là một loài khỉ... Khi loài khỉ ấy bước sang giai đoạn làm người, nó chưa ý thức được nhu cầu hạnh phúc là gì, mà chỉ cần sự thỏa mãn về các nhu cầu cơ bản về ăn, mặc, ở, v.v... trong một môi trường bình yên nhất định.
Khi con người văn minh dần lên, xã hội xuất hiện một số người đạt được mức sống dư thừa về các nhu cầu cơ bản ấy; phải chăng cũng là khi con người đặt ra một vấn đề phức tạp hơn: “sống để làm gì nữa?”.
Để trả lời câu hỏi đó, loài người đã hình thành ra vô số những nội dung lý luận theo các hệ thống nhất định khác nhau, xoay quanh vấn đề: thế nào là sự sống hạnh phúc của một đời người? Hạnh phúc là gì? sự thật hạnh phúc có hay không? v.v...
Và sự sai lầm của con người, theo giả thiết, được bắt đầu từ...
Lúc đầu, con người biết tìm ra những nhận thức cho phép giải quyết thành công các nhu cầu vật chất cơ bản của cuộc sống. Sau đó, họ lại biết tìm cách nâng khả năng đáp ứng các nhu cầu cơ bản ấy lên, bằng những sản phẩm chất lượng cao hơn, hấp dẫn hơn, đa dạng hơn, tiện nghi hơn, sung sướng hơn, v.v... Từ đó, nó đã gợi ý hình thành dần khái niệm hạnh phúc trong nhận thức của con người.
Từ kết quả diễn biến trên, con người đã suy ra kết luận rằng: phải tìm thấy hạnh phúc bằng con đường hưởng thụ các sản phẩm tân kỳ và sung sướng trên, và con người đã gọi đó là sự sống HƯỞNG THỤ VẬT CHẤT; vì những đối tượng đáp ứng cho nó có nguồn gốc tìm thấy từ bên ngoài môi trường Tinh Thần của con người.
Nhưng cuối cùng, dù nguồn hưởng thụ hạnh phúc đến từ môi trường nào, thì cảm xúc hay trạng thái hạnh phúc của con người cũng phải quay về với môi trường Tinh Thần của con người để thể hiện ra. Nhưng do đặc tính của Tinh Thần là luôn vận động không ngừng để tạo sự phát triển đổi mới đến vô tận; nên hạnh phúc do con người cảm nhận được cũng bị đòi hỏi phải có cùng tính chất như vậy.
Do đó, để hạnh phúc không ngừng phát triển đổi mới, con người cũng phải tăng khả năng ăn, uống, mặc, ở, v.v... Nhưng sự tăng khả năng đó chỉ có giới hạn, không thể hơn nữa, nếu không sẽ... bể bụng mà chết!
Trước khả năng hưởng thụ giới hạn trên, đã đe dọa làm phá sản giấc mơ sống hạnh phúc của con người; thì tình cờ con người cũng nghĩ ra được cách: tất cả các giá trị vật chất hưởng thụ trên đều có thể được qui ra thành “TIỀN”. Bằng giải pháp văn minh đó, từ nay con người đã đồng hóa cách hiểu “hạnh phúc” với ý nghĩa, phải có “thật nhiều tiền”. Cách hiểu đó cũng đã vô tình đáp ứng được một phần các đặc tính Tinh Thần của con người đòi hỏi.
Song, có một thực tế khác lại xảy ra song song như một hệ quả tất yếu của cách sống tìm hạnh phúc bằng con đường sở hữu thật giàu tiền lên kia, là sự xuất hiện của một số đông dân cư khác bị dần dần nghèo tiền xuống, đến mức hết tiền trong sự đói khổ bần cùng!
Lý do, sản phẩm do xã hội sản xuất ra chỉ có hạn, vì vậy số tiền in ra trong một xã hội cũng có giới hạn; nên khi có một số người này tìm cách sở hữu hết số tiền kia, thì sẽ bắt buộc phải có số người còn lại bị ít tiền đi, hay không còn tiền nữa để có thể tự nuôi sống bản thân và gia đình họ.
Bởi bản chất của đồng tiền còn là sự đại diện của các nhu cầu sống cơ bản của con người, sau khi nó đại diện cho sự sống của xã hội văn minh hiện đại; và bởi sự sống, theo qui luật của tạo hóa, lại là một nhu cầu tự nhiên, cơ bản và bản năng nhất của con người (vì nếu bản năng con người sinh ra đã muốn chết, thì thế giới ngày nay đã không còn khái niệm “nhân loại”); nên khi con người bị thiếu tiền, là đồng nghĩa với “sự sống bị đe dọa”, và bắt buộc con người phải tìm mọi cách để kiếm tiền bất kể đạo đức, lương tâm, lẽ phải, tình người, v.v...; tức là nó có thể sẽ gây thành các biến cố có hại cho đời sống con người và xã hội, tất yếu trong đó có cả những người giàu tiền kia. Và khi con người vi phạm những sai phạm trên, thì người ta sẽ gọi họ là những kẻ có tội và sẽ bị xử phạt tùy theo các qui định luật pháp của mỗi xã hội.
Người nghèo phạm tội do túng bấn miến cơm manh áo, nhưng ngườigiàu cũng phạm tội, vì sợ trong cạnh tranh sinh tồn sẽ có thể bị thất bại và sẽ thành nghèo; hay vì đời người chỉ có một lần sống, nên sợ giàu ít thì sẽ phải hối tiếc cho những ham muốn bất thành. Ngoài ra con người còn phạm tội, do bị bế tắc về Tinh Thần, hệ quả tổng hợp của các mong muốn bị thất bại, v.v...
Khi xã hội cùng nhau đồng lòng định hướng con đường làm giàu tiền là hạnh phúc, thì con người cũng đồng thời thống nhất với nhau một số lẽ phải qui ước để lý giải, chứng minh và bảo vệ cho những mục đích làm giàu tiền kia là đúng với lý lẽ làm người ở đời, hay đúng với lẽ phải vậy!
Từ đó loài người quan hệ với nhau thông qua các ngôn ngữ, lý lẽ, văn chương, thơ ca, hội họa, làm việc, vui chơi, giải trí, v.v... trên nền của các lẽ phải trên, để nhằm đạt đến mục đích hạnh phục theo như đã qui ước. Nhưng thực tế, kết quả xảy ra đã không như con người mong muốn!
Trước các lý lẽ quanh co, mà cuối cùng sự sống của một số người vẫn cảm thấy như ngày càng khốn đốn hơn, nên nó đã làm cho con người bị mất dần niềm tin nơi cuộc sống và xã hội; và khi con người đã không còn tìm thấy được sự sống và hạnh phúc lý tưởng trong điều kiện mức sống vật chất của cái xã hội ấy vẫn không ngừng được nâng cao, thì bắt buộc con người phải đi tìm lối thoát mới cho sự sống; đó là lý do để hình thành ra mô hình các lẽ phải mới, nghịch lại với các mô hình lẽ phải đã có.
Nếu lẽ phải của mô hình đầu là ca ngợi sự làm giàu tiền để hạnh phúc, thì lẽ phải của mô hình sau ca ngợi sự sống xa lánh các thú vui Vật Chất ấy, như một sự thoát khỏi cái vòng bế tắc của mô hình lẽ phải đầu. Và con người đã xem đó như là một cách sống hạnh phúc, theo nghĩa giải thoát con người ra khỏi sự sống bế tắc và đau khổ của sự sống vật chất trần thế!
Từ đó, sự sống con người có quyền chọn một trong hai hướng lẽ phải trên để phát triển, hoặc có khi tổng hợp cả hai lại để hình thành nên kiểu sống trung dung thứ ba. Biết rằng qui luật vận động của tạo hóa là phát triển dựa trên sự cân bằng quân bình âm dương. Vì vậy, cách sống của lẽ phải thứ ba xem ra cũng khá thịnh hành, nó đã chiếm số đông trong xã hội loài người văn minh hiện đại.
Tuy nhiên, do hai hướng lẽ phải đầu là cơ bản, nên mọi cách sống của hướng thứ ba, khi phát triển tối đa lên, đều bắt buộc phải ngả về một trong hai hướng cơ bản trên. Vì hướng thứ ba chưa đủ cơ sở để lập nên một hướng phát triển độc lập, đủ sức cạnh tranh ngang với hai hướng trên; nó chỉ có khả năng ứng dụng trung dung trong một chừng mực nhất định.
Đặc tính của nhóm lẽ phải thứ nhất chúng ta đã biết. Việc còn lại là tìm hiểu xem đặc tính của các lẽ phải thứ hai: sống đạm bạc, không ham giàu tiền, là như thế nào. Nếu lẽ phải thứ nhất được phát triển trên cái gốc của các nhu cầu cơ bản về ăn, mặc, ở, v. v... của sự sống con người, thì ngược lại, mô hình lẽ phải thứ hai có bản chất từ đầu đến cuối là tìm cách hạn chế hóa các nhu cầu trên, như muốn tiến dần đến triệt tiêu các nhu cầu cơ bản đó của con người vậy. Cả hai mô hình lẽ phải trên của xã hội đều cuối cùng gặp nhau ở sai lầm: “CẢN TRỞ SỰ SỐNG TỰ NHIÊN” của con người trước qui luật của tạo hóa, thông qua hai hiện tượng “LÀM NGHÈO HÓA” và “ĐẠM BẠC HÓA” đời sống con người.
Biết rằng, khi con người tìm cách chống lại qui luật sinh tồn cơ bản của tạo hóa, thì bao giờ cũng sẽ vấp phải thất bại. Theo giả thiết, sự sống phát triển toàn diện và thống nhất là một qui luật của tạo hóa.
Tuy nhiên, do sự vận động xã hội là một tổng thể thống nhất, nên khi con người vấp phải sai lầm chống lại tạo hóa, thì hậu quả nhất định sẽ rơi xuống xã hội. Nhưng cụ thể ai sẽ gánh chịu những hậu quả đó? Đó cũng là vấn đề đáng được con người bỏ nhiều công sức để suy nghĩ.
Nếu gọi thành công là hạnh phúc, là sống, là không bị tạo hóa trừng phạt, thì thất bại là đau khổ, là chết, là bị tạo hóa trừng phạt. Nhưng do xã hội loài người được tạo ra bởi tạo hóa để sống và phát triển theo qui luật, nên trong xã hội chắc chắn phải có người sống, thành công, giàu sang và hạnh phúc; nhưng đồng thời cũng phải có những người gánh chịu các hình phạt trên thông qua các thất bại, bế tắc, đau khổ, nghèo đói, bệnh tật, v.v... và chết, do qui luật tạo hóa tác động vào xã hội loài người.
Nhưng cụ thể trong xã hội, ai được sống và ai phải chết theo qui luật trừng phạt ấy của tạo hóa? Điều này không thể biết nếu xét vấn đề theo góc độ hẹp, chúng xảy ra như hên hay xui vậy thôi. Nhưng nếu xét trên góc độ toàn diện, thì có thể dự đoán: những ai đang ở đỉnh cao của sự phát triển thịnh vượng, những ai đang bị suy kiệt khả năng cạnh tranh phát triển, những ai đang ở những giao điểm nóng của sự cạnh tranh, những ai đang quá tự tinh và háo thắng, v.v... thì dễ bị gánh hậu quả xui xẻo nhất.
... Từ ba mô hình lẽ phải cơ bản trên, con người khai thác biến tấu chúng thêm ra thành vô số mô hình lẽ phải phụ khác. Ví dụ, để đạt được mục đích giàu tiền, con người cần phải có khả năng, v.v... hay để đạt được mục đích sống đạm bạc, con người cũng cần một số khả năng, hình thức, v. v...; để cuối cùng các khả năng đó lại được con người đồng hóa như một giá trị của mục đích sống, v.v...; mà vì thế, một số mô hình lẽ phải mới khác được xuất hiện v.v... Ví dụ, có những người coi trọng nghề nghiệp hơn là kiếm tiền làm giàu, v. v...
Tổng hợp lại, con người có được một xã hội với vô số lý về sự sống đang rối vào nhau cực kỳ phức tạp, mà hậu quả dẫn đến là sự nhàm chán lý lẽ hay lý tưởng sự sống của các thế hệ đi sau!
Lỗi này là tại ai? Trước tiên lỗi này là thuộc về sự lệnh lạc trong quá trình định nghĩa “thế nào là sự sống hạnh phúc đời người” của con người và xã hội.
6. HẠNH PHÚC LÀ GÌ?
Khi con người đang cần ăn, mặc, ở v.v... mà được cho ăn, mặc, ở, v.v..., thì các khái niệm về cảm xúc hạnh phúc sẽ được nhen nhóm, bén rễ hình thành. Đó cũng là những nhu cầu cảm xúc cơ bản đầu tiên, có ý thức về vật chất, cần cho sự sống cơ bản của mỗi con người.
Bản chất sự sống con người được phát triển trên nền của các cảm xúc và lý lẽ của con người. Nhưng các lý lẽ kia, đến một lúc nào đó, là nguyên nhân dẫn đến hậu quả: “con người bị mất khả năng có được các cảm xúc cơ bản trên”, điều đó khác gì đã làm mất điều kiện cơ bản để sự sống tự nhiên của con người được tồn tại và phát triển. Nếu thế, các lý lẽ kia, giờ đây sẽ không còn được công nhận là lẽ phải nữa vậy.
Nếu định nghĩa:
    (CT. 0)      
HẠNH PHÚC     =     HẠNH PHÚC VẬT CHẤT + HẠNH PHÚC TINH THẦN
suy ra

    (CT. 1)      
HẠNH PHÚC     =     ĐÁP ỨNG NHU CẦU VẬT CHẤT CƠ BẢN + LẼ PHẢI
(ước mơ căn bản)

Như chúng ta đã biết, trong Tinh Thần con người gồm có Tâm A và Tâm B. Biết rằng A có trước, được hình thành và tồn tại bởi nội dung thói quen dưới hình thức các CẢM XÚC, và là đại diện trước tiên cho các bản năng sống cơ bản đầu tiên của con người. B có sau, đại diện cho sự hình thành các nhu cầu sống phát triển của con người; nó được hình thành và tồn tại bởi nội dung thói quen dưới hình thức chính của các NGÔN NGỮ.
Đối với đứa trẻ, “cảm xúc vô thức” về nhu cầu được sống và bình yên là có trước tiên, sau đó mới phát triển lên thành các nhu cầu “cảm xúc có ý thức” cụ thể. Khi đứa trẻ dần lớn lên, thì khả năng ngôn ngữ cũng được hình thành dần; từ đơn âm đến câu nói, đến lý lẽ, và cuối cùng con người tiến đến nhu cầu được đáp ứng các lẽ phải có lý luận hệ thống, hợp lý, khoa học, công bằng, v. v...
Do thứ tự có trước, A có tính quyết định trước B; “Cảm xúc hạnh phúc vô thức nguyên thủy” có trước “lẽ phải”, tức là “lẽ phải” phải dựa trên tâm điểm “hạnh phúc” để hình thành. Còn ngược lại, cảm xúc hạnh phúc sẽ bị triệt tiêu, và lẽ phải trở thành phi lý.
Biết rằng, Tâm B được tạo nên từ quá trình hình thành khả năng nhận thức của con người, thông qua sự phản ánh của môi trường Vật Chất bên ngoài vào bên trong sự vận động Tinh Thần của não người, nên chúng ta còn gọi Tâm B là TÂM VẬT CHẤT. Tâm A do được hình thành bởi vô thức, có trước khi xuất hiện sự chi phối của B, nên được gọi là TÂM TINH THẦN.
Biết rằng tiền bạc có bản chất cấu tạo từ bên ngoài Tinh Thần, nên nó thuộc về Tâm Vật Chất hữu tình. Hạnh phúc có bản chất là cảm xúc, được hình thành từ trong Tinh Thần, nên nó thuộc về Tâm Tinh Thần vô hình.
Tuy nhiên, dù tiền bạc và hạnh phúc có nguồn gốc tâm rất khác nhau, nhưng tất cả đều có thể được diễn tả bằng “ngôn ngữ” để phản ánh vào B hay dưới dạng “cảm xúc” để tiến vào A.
Nhưng do trong thực tế cuộc sống, thường con người quen lấy ngôn ngữ làm phương tiện căn bản để quan hệ giao dịch, nên “tiền bạc” và “hạnh phúc” đều được con người quen nhận dạng qua hình thức ngôn ngữ B là chính. Mà B là Tâm Vật Chất, nên cả hai vô hình trung cùng bị biến thành có thuộc tính là Vật Chất. Nhưng trong đó, khái niệm “hạnh phúc” bị ngộ nhận. Một sự ngộ nhận tai hại sẽ để lại những hậu quả khôn lường về sau.
Khi cả hai bị con người qui về mặt bằng ngôn ngữ Vật Chất để nhận diện, thì tức thời, tất cả bị qui ra thành TIỀN trong thực tế để tạo thành một mặt bằng có thể qui đổi giá trị thống nhất giữa chúng với nhau. Trong môi trường Vật Chất đó, B tất yếu sẽ có tính quyết định hơn A, tức là hạnh phúc phải nhìn lẽ phải “Tiền” để hình thành.
Do kết luận trên của con người đi ngược lại bản chất cấu thành của cơ chế vận động Tinh Thần của não người, nên lẽ phải trở thành phi lý, và hạnh phúc của con người thường xuyên bị phá vở và bị hủy hoại dần là do vậy.
Lý do con người vấp phải sai lầm trên, là do con người lạm dụng và đề cao lý lẽ quá mức như một giá trị độc tôn. Hay chỉ vì con người mới biết phát hiện và khai khác được khả năng của Tâm B, mà không biết rằng trong thực tế cuộc sống còn có Tâm A, nó đóng vai trò còn quyết định hơn cả Tâm B đối với sự sống con người.
Tâm B tạo cho con người khả năng rèn luyện lý luận, nhận thức, v.v..., nhưng nó không chỉ ra được bản chất con người là ai. Vì vậy, các sự nghiệp giải phóng mức sống thật của con người, như vẫn luôn bị thách thức theo thời gian. – Thường chúng chỉ thành công, khi hậu quả của các sai lầm đã đạt đến một cao điểm, dễ thấy, dễ phân định phải, trái (bằng trực giác là phổ biến), v.v... Còn trong điều kiện đời sống bình thường, con người vẫn còn thất bại trước yêu cầu phải phát hiện ra những sai lầm mới chớm của con người.
Vậy, bằng cách nào có thể xây dựng cuộc sống con người phát triển tốt đẹp và hoàn thiện, cái ác không còn môi trường phát triển, con người không còn bị trở thành tội phạm, v.v...? Điều đó sẽ không thể đạt được nếu con người vẫn tiếp tục chỉ dùng cái lý của B để truy tìm các mô hình lẽ phải cho thời đại vậy!
7. TRÁI TIM SỰ SỐNG
Sự sống sinh hoạt của xã hội loài người, hàng ngày đều phải chịu sự điều khiển trực tiếp của sự vận động Tinh Thần của não người. Nếu làm chủ được sự vận động Tinh Thần đó, thì con người sẽ tất yếu làm chủ được “trái tim” điều hành sự sống của con người vậy.
Chúng ta đã biết, loài người văn minh đã chọn “ngôn ngữ” làm phương tiện trọng tâm để quan hệ và phát triển. Do đó, con người muốn tiến đến làm chủ sự vận động Tinh Thần, thì cũng chỉ có thể bằng con đường “ngôn ngữ” là hiệu quả nhất.
Chúng ta cũng đã biết rằng, Tâm B là nơi chịu trách nhiệm tiếp nhận, xử lý và phản hồi lại các thông tin ngôn ngữ đến từ nhiều nguồn khác nhau. Khoa học ngày nay đã phát triển, điều đó chứng tỏ bản chất của sự vận động tồn tại của tạo hóa trong không gian vũ trụ, là sự đan kết vào nhau của một hệ thống trật tự mang tính khoa học vô cùng chặt chẽ. Nhờ những đặc tính kỳ diệu đó, mà loài người mới sáng tạo thành công một môi trường sống nhân tạo kỳ diệu như ngày nay.
Có nghĩa là, môi trường Vật Chất bên ngoài mang tính vận động hệ thống chặt chẽ và khoa học, thì môi trường vận động bên trong Tinh Thần của con người cũng sẽ có cùng tính chất vận động tương tự. - Nếu thế, phải chăng Tinh Thần có sau Vật Chất, nếu xét vấn đề từ sự có ý thức của con người? Nhưng do bản chất Tinh Thần có tính kế tục từ vô thức về những sự vận động từ thời khai thiên lập địa đến nay, nên nếu xét từ góc độ tạo hóa, thì tất cả đều có cùng thời. Nếu gọi trước CÓ là KHÔNG, gọi CÓ là Vật Chất và KHÔNG là Tinh Thần, thì Tinh Thần có trước Vật Chất vậy.
Tinh Thần tuy chịu phản ánh của môi trường Vật Chất, nhưng ngược lại Vật Chất cũng chịu sự tác động trở lại bởi Tinh Thần. Tóm lại, Vật Chất và Tinh Thần đều có cùng nguồn gốc, có đặc tính vận động giống nhau, có khả năng tác động qua lại nhau, nhưng khác nhau về hình thức tồn tại và có sự vận động độc lập tương đối với nhau.
Nếu Vật Chất và Tinh Thần có các đặc tính trên đây, thì giữa Tâm A và Tâm B cũng có cùng những đặc tính tương tự như vậy. Trong đó, chúng ta cần chú ý, hình thức tồn tại của A là “cảm xúc” và B là “ngôn ngữ”; và con người chỉ có thể cảm nhận trực tiếp sự tồn tại của B, nhưng lại hoàn toàn không thể đối với A.
Sự sống con người sinh hoạt được là nhờ vào sự vận động của hai hệ thống A và B, với A có tính quyết định đối với B. Như vậy, vấn đề là phải biết làm chủ A, trước khi muốn xây dựng B thành công. Muốn biết A, thì phải biết dùng ngôn ngữ của B làm phương tiện. Trong ngôn ngữ của B chia ra hai hình thức tồn tại và vận động song song, hình thức NỘI DUNG và hình thức CẢM XÚC (đây là “cảm xúc” tại B, khác với “cảm xúc” tại A).
Không có nội dung nào mà không sinh ra cảm xúc, không có cảm xúc nào mà thiếu nền nội dung. Cảm xúc là thể hiện của A vào môi trường của B, và nội dung là phương tiện thông tin của B gởi đến A.
Như thế sự sống Tinh Thần được bắt đầu theo qui trình như sau:

A thông tin trước đến B(A):    TỪ CẢM XÚC VÔ THỨC HẠNH PHÚC NGUYÊN THỦY                    GỢI NHU CẦU Ý THỨC VỀ NGÔN NGỮ     (1)
B thông tin trả lại A     (B)    :    NỘI DUNG Ý THỨC NGÔN NGỮ ĐẦU TIÊN,                            VÍ DỤ: MẸ, BA                 (2)
A thông tin trả lại B    (A)    :    CẢM XÚC MẸ, BA                 (3)

Kết quả chúng ta có tại B:

            (A) CẢM XÚC MẸ, BA              ĐƠN VỊ TƯ DUY Ý THỨC
(2) + (3) =                           =
            (B) NỘI DUNG MẸ, BA               ĐẦU TIÊN RA ĐỜI
                                                        (CT. 2)
Từ công thức cơ bản trên, B phát triển dần lên với qui mô ngày càng phức tạp và đa dạng, trên mọi lĩnh vực trong quá trình quan hệ sinh tồn của mỗi con người trước môi trường sống.
Trong mỗi giai đoạn sống của mỗi đời người, con người đều có một mục đích sống nhất định. Do đó, chúng ta cũng có:

                (A)         CẢM XÚC MỤC ĐÍCH SỐNG
        (2) + (3)   =        =
                (B)         NỘI DUNG MỤC ĐÍCH SỐNG
                                                        (CT. 3)
Chúng ta biết rằng, con người xã hội văn minh có mục đích sống phổ biến là Hạnh phúc (ước mơ). Nhưng từ thực tế sự sống, con người cho rằng, phải có tiền mới có Hạnh phúc (thực tế). Từ (CT. 3) chúng ta suy ra: (dấu # có nghĩa tương ứng với)

    CẢM XÚC HẠNH PHÚC # NỘI DUNG “HẠNH PHÚC” = NỘI DUNG “TIỀN”
hay:     CẢM XÚC HẠNH PHÚC # NỘI DUNG X
                                                        (CT. 4)
với X được thay thế bất kỳ, miễn là nó dẫn đến cảm xúc hạnh phúc. Các nội dung tiền, nội dung việc làm, nội dung nghề nghiệp, nội dung bằng cấp, v. v... đều có thể là những nội dung “hạnh phúc thực tế”, có tính bậc thang để tiến đến nội dung “hạnh phúc ước mơ”. Từ các nội dung trên, con người mới định ra các “nội dung lẽ phải” cho phù hợp với các X đã chọn.
Và cuối cùng, chúng ta có:

        CẢM XÚC HẠNH PHÚC # NỘI DUNG LẼ PHẢI X                (CT.5)

Như đã đề cập trong các chương trước, lẽ phải của con người ngày nay biến hóa rất đa dạng và phức tạp. Mỗi quan điểm lẽ phải hình thành ra một MỤC ĐÍCH SỐNG THỰC TẾ riêng, và tùy theo mục đích sống thực tế đó mà mỗi con người sẽ hình thành ra một nhân cách sống tương ứng. Như thế, cuối cùng xã hội có bao nhiêu “lẽ phải”, thì sẽ có bấy nhiêu nhân cách tốt hay xấu, thiện hay ác lẫn lộn được hình thành.
Tất cả những hiện tượng trên đều được bắt đầu trên cùng một nguyên nhân: “vì đi tìm Cảm Xúc Hạnh Phúc mà con người bị biến thành đa dạng nhân cách, để rồi bị hóa thành nạn nhân của sự MẤT Cảm Xúc Hạnh Phúc, từ chính sự phát triển tự phát và vô tổ chức của các lẽ phải lộn xộn trên”.
Do đó, vấn đề nghiên cứu qui hoạch lại mô hình phát triển các lẽ phải sao cho hợp lý, có lợi cho mọi người, không tạo thành những mâu thuẫn đối kháng vô ích như trong quá khứ và hiện nay, là bài toán quyết định để tạo bước ngoặt cho một mô hình phát triển tương lai thành công và hoàn thiện của xã hội loài người vậy.
8. CƠ SỞ XÂY DỰNG LẼ PHẢI
Chúng ta biết rằng, lẽ phải dù mang nội dung nào cũng đều được con người nhận thức tại Tâm B, và kèm theo một cảm xúc của Tâm A gởi đến để gắn liền vào lẽ phải đó.
Gọi:
                    CẢM XÚC LẼ PHẢI
            SỰ SỐNG =
                    NỘI DUNG LẼ PHẢI                    (CT. 6)

Nhưng mặt khác từ (CT. 5), chúng ta suy ra:

                    CẢM XÚC HẠNH PHÚC
            SỰ SỐNG =
                    NỘI DUNG LẼ PHẢI                     (CT. 7)

Cộng (CT. 6) với (CT. 7) lại, chúng ta có:

                    CẢM XÚC (LẼ PHẢI + HẠNH PHÚC)
            2 SỰ SỐNG =
                        NỘI DUNG LẼ PHẢI
Hay:

                        CẢM XÚC LẼ PHẢI CG  
            SỰ SỐNG Y =
                        NỘI DUNG LẼ PHẢI Y                (CT. 8)

Với:
            LẼ PHẢI CG = LẼ PHẢI Y + HẠNH PHÚC Y

Y có nghĩa: Sự Sống. Lẽ Phải, Hạnh Phúc của một cá nhân Y bất kỳ.
(Chú thích: CẢM XÚC LẼ PHẢI CG được gọi tắt là CẢM XÚC CG hay CG.)
Nếu gọi, “Lẽ Phải Đúng” là hợp với sự chân, thiện, mỹ có thể dẫn sự sống con người đến hạnh phúc ước mơ, là Lẽ Phải có dấu dương: + LẼ PHẢI; Thì gọi, “Lẽ Phải Sai” v. v... dẫn con người đến thất bãi và đau khổ, là Lẽ Phải có dấu âm: – LẼ PHẢI.
Chúng ta suy ra:
            CG = HẠNH PHÚC +  | LẼ PHẢI X |                    (CT. 9)
Nếu Lẽ Phải X là (+), thì hạnh phúc đời người sẽ trọn vẹn.
Nếu Lẽ Phải X là (–) và có trị số tuyệt đối nhỏ hơn Hạnh Phúc, thì sự sống đời người có sai, có đúng, có lúc đau khổ, có lúc hạnh phúc, dẫn đến kết quả đời người cũng còn ít nhiều hạnh phúc.
Nếu Lẽ Phải X là (–) và có trị số tuyệt đối lớn hơn hay bằng với Hạnh Phúc, thì cuộc sống đời người bị nhiều bất hạnh và đau khổ.
Vấn đề đặt ra, là làm sao nghiên cứu cho Lẽ Phải X luôn (+); tức là CG luôn (+), thì sự sống con người sẽ chắc chắn được hạnh phúc trọn vẹn.
Cần nhắc lại để chúng ta dễ nhớ và liên hệ, trong (CT. 9) LẼ PHẢI X tượng trưng cho mục đích sống hạnh phúc THỰC TẾ và yếu tố HẠNH PHÚC tượng trưng cho mục đích hạnh phúc ƯỚC MƠ của mỗi đời người.
Nhìn lại (CT. 8), chúng ta nhận thấy sự sống của cá nhân Y: nếu giả định có Cảm Xúc Lẽ Phải CG là (+) với Nội Dung Lẽ Phải Y cũng được luôn (+), thì điều đó có nghĩa Y đang có một hạnh phúc lý tưởng vậy.
Trong thực tế cuộc sống, thông thường con người phải đợi có tiền trước rồi mới có hạnh phúc đến sau; tức là phải có B trước thì A mới đến sau, hay phải có Vật Chất trước thì Tinh Thần mới đến sau. Vì vậy, trong (CT. 8) chúng ta có: Nội Dung Lẽ Phải có trước làm MẪU SỐ, và Cảm Xúc CG đến sau làm TỬ SỐ. Tức là (A) có trên (B), (A)/(B).
Nhưng biết rằng, Mẫu Số có gốc hình thành từ B, sẽ dễ bị biến đổi bởi ý muốn chủ quan của con người, nên kết quả Sự Sống của Y cũng sẽ dễ bị biến đổi thất thường từ bản chất, hay tức là hạnh phúc của Y sẽ không bền và ổn định.
Muốn cho sự sống con người được ổn định hơn, thì chúng ta phải đổi mẫu số lên và đưa tử số CG xuống; vì CG có gốc hình thành từ A, là vùng mang tính ổn định cao, nó nằm ngoài sự chi phối chủ quan và trực tiếp của con người.
Có nghĩa là, con người phải được đào tạo có ý thức xây dựng Hạnh Phúc Tinh Thần trước, để dựa vào đó mới xây dựng Hạnh Phúc Vật Chất đến sau. Có như thế, giá trị sự sống hạnh phúc đời người mới khó bị tác động thành không bền, mà sẽ mang tính ổn định, bền vững lâu dài. Vậy tức là, con người phải phấn đấu sao cho (B)/(A), thay vì đang quen (A)/(B).
Và đó cũng là con đường để con người tìm ra trị số của Lẽ Phải Y sao cho được luôn (+) vậy.
Như chúng ta đã biết để đến B có hai nguồn, nguồn từ môi trường Vật Chất bên ngoài đến hay từ Trạm 1 đến, và nguồn kia là từ bên trong vô thức của Tinh Thần đến hay từ Tâm A đến.
Có nghĩa là, (A)/(B) đồng nghĩa với thói quen sử dụng thông tin từ 1 đến tác động vào B để lấy đó làm động lực thúc đẩy con người bị lôi cuốn vào cuộc sống. Do đó, sự sống con người dễ bị trở thành nô lệ của Vật Chất, và có thể gặp bế tắc nếu như môi trường sống Vật Chất đó mang nội dung bế tắc.
Vấn đề cần thay đổi là, con người nên xây dựng thói quen, sao cho B chú ý nhận thông tin từ A đến trước, rồi mới nhận thông tin từ 1 đến sau; thì sự sống con người chỉ lệ thuộc Tinh Thần là chính và Vật Chất chỉ còn là yếu tố phụ, không còn đủ khả năng gây bế tắc cho sự sống con người nữa.
Môi trường A có trong Tinh Thần của mỗi con người, có số lượng thông tin phong phú và dồi dào cũng không kém gì môi trường B, hay có thể nó có còn hơn thế nữa; nên sự sống con người lệ thuộc A, sẽ có nhiều khả năng phát triển ổn định, hạnh phúc và bền vững hơn.
Thế nhưng, làm cách nào để tạo được sự chuyển hướng đó? Và vì sao môi trường A có được nguồn thông tin phong phú như vậy?
Do đó, vấn đề là phải hiểu A. Như đã giới thiệu trong chương trước, tạo hóa sinh ra thế giới tồn tại, nó luôn vận động theo một cơ chế hết sức chặc chẽ, như một hệ thống lý luận khoa học vô cùng huyền diệu. Mà A là một sản phẩm của tạo hóa, được cô đọng tập trung vào sự sống nội tâm của mỗi cá nhân con người, nên nó cũng có được các nguyên tắc vận động tồn tại giống như trên.
Chúng ta biết rằng, thông tin của B vào đến A, thì được chuyển hóa thành NỘI DUNG của Cảm Xúc. Ngược lại, thông tin từ A ra đến B, thì được qui dịch thành NỘI DUNG của Ngôn Ngữ, để từ đó B lấy làm phương tiện cho tư duy đúc kết thành nhận thức. Và khi thông tin từ B gởi đến 1, sẽ được khoác thêm chiếc áo HÌNH THỨC để trở thành công cụ giao tiếp với thế giới bên ngoài.
Khi một đức trẻ lớn lên và trưởng thành, thì từ sau thông tin vô thức (1) của Tinh Thần (chương 7), tức là từ sau các thông tin của A gởi đến B đầu tiên; đứa trẻ sẽ có khuynh hướng phát triển sự nhận thức của mình theo các nguồn thông tin đến từ ngoài là chính, tức từ 1 đến B, và không có ý thức nhận nguồn thông tin từ A đến B.
Hiện tượng được phát họa như sau:
        A                B                1          
            (1), (2), (3),...                (a), (b), (c),...                 (H. 1)

Gọi,
Nhóm I: (1), (2), (3), v.v... là những thông tin từ nguồn A để vào B.
Nhóm II: (a), (b), (c), v.v... là những thông tin từ nguồn 1 để vào B.
Đứa trẻ, theo bản năng tự nhiên, sẽ tập trung hướng sự chú ý nhận thức của mình về phía Nhóm II của Vật Chất là chính; mặc dù, trong khí đó Nhóm I, là nhóm của Tinh Thần, vẫn đang tồn tại và phát triển song song.
Và như thế từ vị trí B, đứa trẻ sẽ dần trở thành một người lớn và tự xây dựng cho mình một mô hình Lẽ Phải X để dựa vào đó mà sống và ước mơ hạnh phúc. Lẽ Phải X được hình thành như vậy, sẽ luôn có nội dung (–), tức sai, nếu xét góc độ nhìn toàn diện; vì nó thiếu nhận thức về sự tác động vô hình, nhưng có tính quyết định, của các thông tin từ A gởi đến B.
Nguyên tắc đơn giản để cho một nội dung lý luận được đúng và khách quan, là bản thân nó phải tổng hợp đủ các yếu tố cấu thành B, nhất là các yếu tố từ A đến; nếu không nó sẽ đưa ra kết luận sai, vì phiến diện. Ở đây, A không những là một yếu tố cấu thành, mà còn là yếu tố mang tính quyết định cho sự hình thành NHÂN CÁCH BẢN CHẤT TÍCH CỰC trong mỗi con người. Vì thế, nếu A bị loài người bỏ sót, thì tất yếu sự sống con người sẽ khó được như ý tuyệt đối vậy.
Để sửa chữa sai lầm, cách đơn giản là con người phải chịu khó đưa sự tính toán lý lẽ sinh tồn thường ngày của mình, đem cộng thêm với các thông tin từ A gởi đến, thì tin rằng tình thế ắt sẽ được cải thiện tốt hơn rất nhiều.
Chúng ta đưa thêm A vào sự sống con người bằng cách nào?
9. CỬA VÀO TÂM A
Tâm a chỉ có trong trí tưởng tượng của con người, nên con người có quyền từ chối công nhận sự hiện hữu của tâm A trong đời sống của mình. Điều đó có quyền, nhưng theo các chứng minh trên thì con người sẽ phải gánh lấy những hậu quá khó chịu..., có thể trong trước mắt hay trong lâu dài về sau! Vấn đề được giới thiệu sáng tỏ thêm như sau.
Tuy A chỉ thấy bằng trí tưởng tượng, nhưng sự thật A xuất hiện rất cụ thể, vì A chính là đầu mối để bộ máy Tinh Thần của con người được gắn liền vào cơ thể con người. Không có A thì Tinh Thần con người sẽ... bay vào hư vô mất, bởi Tinh Thần cũng chỉ là một hiện tượng vô hình, vô nghĩa nếu nó không được kết dính vào một vật chất cụ thể nào đó. Hay nói cách khác, A chính là điểm giao tiếp giữa một bên là sự vận đông Tinh Thần trí óc, và một bên là sự vận động Vật Chất sinh lý của não và cơ thể của con người.
Nhờ có A mà các nội dung thông tin từ B đưa đến, được chuyển sang cho cơ thể con người, làm co giật các cơ toàn thân theo một cường độ nhất định nào đó. Ví dụ, nếu đó là một thông tin buồn thì toàn thân ủ rũ, mặt mày buồn bã, bụng ăn không ngon, ngủ không yên, tim phập phòng lo sợ, v.v... Nếu đó là thông tin có nội dung vui, thì cơ thể như căn ra tràn đầy sức sống, miệng cười vui tươi, ham làm, ham ăn, lòng cảm thấy rộn ràng như mở cờ, sức sáng tạo phát triển, v.v...
Tất cả những hiện tượng phản ứng cơ thể trên, xảy ra hoàn toàn tự nhiên ngoài ý muốn con người. Tùy cường độ nội dung thông tin tác động mạnh hay yếu ấy mà mỗi người có thể giấu được sự xúc cảm hay không; song, chỉ có thể giấu với người khác, còn với chính nội tâm hay với nổi lòng riêng của bản thân người đó, thì không làm sao có thể giấu được.
Sự tác động của A đối với cơ thể con người phải tuân theo một công thức nhất định, trên cơ sở của các nguyên tắc cấu thành Lẽ Phải X trong B của mỗi người xảy ra như thế nào. Có thể với cùng một nội dung tác động thông tin, nhưng có người cảm thấy buồn, còn người kia cảm thấy vui. Ví dụ, đứng trước một phong cảnh bên đường, có người cho là vui, có người cho là buồn, còn người khác thì không cảm thấy gì cụ thể, v.v...
Khi một công thức cảm xúc đã được A sàng lọc ổn định, thì về sau, nó sẽ rất khó thay đổi, vì tất cả đã tạo thành một dây chuyền thói quen trong bộ máy vận động của toàn cơ thể mỗi người. Nó đã quen được rèn luyện phản ứng như thế, từ nhịp đập trái tim, hơi thở, cơ bắp các cơ quan, v.v... đến các nếp nhăn suy nghĩ trên bề mặt não của mỗi con người.
Con người không thể dùng ý chí để chống lại lệnh thông tin từ A, cho dù phải chịu đầu nhức, tim đập mạnh rối loạn, hơi thở khó khăn, cơ thể bị ức chế, v.v... Ví dụ, khi một người đã quen sống hạnh phúc với một người thân, nhưng đột nhiên nghe tin người ấy bị mất vì một tai nạn bất ngờ, thì người ấy sẽ có thể bị chết ngất tức thì. Hay nếu nhằm người có sức yếu, thì có khi vấn đề sẽ nặng hơn.
Tương tự, nếu công thức A là ác nay muốn trở lại thiện, thì vấn đề ắt cũng sẽ không dễ; hay người thiện nay muốn trở thành ác, cũng rất khó vậy. Tuy nhiên, vế thứ hai dù sao cũng dễ xảy ra hơn vế đầu, vì muốn làm người thiện trong điều kiện xã hội ngày nay, nó đòi hỏi con người phải cố gắng học tập rèn luyện về nhiều mặt, cùng với các điều kiện khác.
Khi mỗi con người trưởng thành có một cách sống đặc thù, thì cũng đồng nghĩa đã có một công thức sống A tương ứng. Nó đóng vai trò chi phối trực tiếp sự sống con người suốt đời, rất khó sửa đổi.
Vì vậy, vấn đề nghiên cứu làm chủ sự hình thành công thức A, sẽ giúp làm tăng chất lượng đời sống con người một cách đặc biệt.
Để làm chủ sự hình thành của A, con người phải làm chủ các hiện tượng xảy ra tại B. B thì vừa chịu sự chi phối của A, của 1 và của chính nó như các ý muốn, ý chí, nghị lực v.v... của cá nhân đó; trong đó, 1 là đại diện trực tiếp của môi trường sống bên ngoài, nó từ lâu đã mang tiến là vô cùng phức tạp; còn A thì thuộc vùng vô thức, nằm ngoài sự chủ động trực tiếp chủ quan của con người.
Do đó, con đường thoát duy nhất còn lại cho vấn đề là: tự B phải nghiên cứu để tìm ra cách giải quyết lấy tất cả. Do B phải độc lập giải quyết như vậy, nên thông thường B dễ bị thất bại, và con người có khuynh hướng sống theo môi trường từ 1 tác động đến là chính, theo kiểu “nắng bề nào che bề nấy”, “ăn cơm chúa thì múa tối ngày”, v.v...
Nếu con người cứ sống tiêu cực như thế mãi, thì con người cứ sống tiêu cực ngày càng nặng hơn đến xấu dần. Vì tạo hóa tạo ra con người không ngừng phát triển theo một hướng nhất định, một là tốt dần lên và hai là xấu dần xuống; ngoài ra; không thể có trường hợp thứ ba, đứng dậm chân mãi một chỗ để bao giờ cũng vẫn là “không thiện mà cũng không ác”(?).
Do đó, bắt buộc con người phải tìm cách dùng B để cải thiện đời sống, bởi phải chăng chính tạo hóa đã sinh ra B là để làm việc đó, không còn cách nào khác vậy. Nền văn minh nhân loại ngày nay có được là nhờ B. Vậy bản thân B, từ bẩm sinh đã có mầm nhận thức vấn đề một cách khoa học theo đúng nguyên tắc: B vốn là một sản phẩm của tạo hóa được hình thành trong cơ thể con người, nên có cũng có những đặc tính vận động ưu việt giống như A.
Nhờ đó, từ B chúng ta nhìn lại (CT. 9) với CG là thông tin (A) của A gởi đến B, chúng ta thấy tại A có hai nội dung: Lẽ Phải và Hạnh Phúc, mà ý nghĩa được hiểu như sau:
– Lẽ Phải: được hình thành bởi nhóm II (H. 1) là Lý Lẽ Nhân Tạo.
– Hạnh Phúc: được hình thành tự nhiên từ nhóm I, là Lý Lẽ Tạo Hóa, hay lý lẽ của LƯƠNG TÂM hay của CÁI TÂM con người.
Từ nội dung trên, chúng ta suy ra được một nguyên lý cơ bản vô cùng quan trong: “mọi người sinh ra từ bẩm sinh đều đã có nhu cầu Sống và Hạnh Phúc”; đều đó đồng nghĩa với sự tồn tại của Lương Tâm hay Cái Tâm hay bản chất yêu chuộng Chân, Thiện, Mỹ trong mỗi con người. Và chúng ta gọi chung, đó là những Lý Lẽ Tạo Hóa hay Lý Lẽ Thiên Tạo trong mỗi con người.
Như thế, Lý Lẽ Nhân Tạo còn được gọi là Lý Lẽ Vật Chất, vì nó có gốc hình thành tứ 1 đến. Lý Lẽ Tạo Hóa hay Thiên Tạo là Lý Lẽ Tinh Thần, vì nó có gốc hình thành từ A đến. Và tất yếu, Lý Lẽ Tạo Hóa luôn có tính quyết định trước Lý Lẽ Nhân Tạo.
Từ lâu con người thường chỉ quen dùng B để tạo ra các Lẽ Phải X; trong đó B chịu sự cố vấn “bắt buộc” từ thông tin (A) (A gởi thông tin đến B), để tạo thành các sai lầm (B) (B gởi thông tin đến A). Để từng bước làm chủ sự tác động của A, con người phải tìm cách chủ động được (B), vì B gây ảnh hưởng trực tiếp đến A để tạo thành (A) sai lầm hay (A) chân lý.
Do từ lâu con người không quen chủ động (B), nên khi mọi hiện tượng xảy ra tại B đều đến thẳng A không thông qua ý thức kiểm soát của con người, đã vô tình gây hậu quả xấu cho A. Hậu quả tai hại sau đó, là A sẽ quay lại hại B thông qua (A). Chu kỳ cứ thế được tái diễn với tính chất ngày càng xấu hơn.
Tại A, khi (B) đến với nội dung là Lẽ Phải Vật Chất (–) (xem chương 8), thì A chuyển đổi nội dung đó thành Lý Lẽ Nhân Tạo (–) trong A và đem kết hợp với nội dung của Lý Lẽ Tạo Hóa (+) đã có sẵn từ bẩm sinh, để cuối cùng biến thành (A) gởi đến B.


Như thế chúng ta có:
        LÝ LẼ TẠO HÓA + | LÝ LẼ NHÂN TẠO | = (A)                 (CT. 10)

Khi Lý Lẽ Nhân Tạo mang tính Vật Chất, sai (–), có trị số tuyệt đối nhỏ hơn Lý Lẽ Tạo Hóa, thì khi đó (A) được tạo ra sẽ (+); tức là cách sống và sinh hoạt của con người còn ít nhiều lương tâm và còn tìm thấy một phần hạnh phúc.
Nếu trị số tuyệt đối của Lý Lẽ Nhân Tạo tăng dần lên, thì (A) tiến dần đến 0 và tiến qua trị (–); tức là nhân cách con người trở nên ác và vô lương tâm dần lên, để cuối cùng dẫn đến sự đau khổ, bế tắt trong sự sống con người. Chúng là các hệ quả tất yếu của các quan hệ bất công, bất bình đẳng và bạo lực, v.v... giữa con người với nhau.
(CT. 10) tại A là bản sao linh hồn của (CT. 9) tại B vậy.
10. CON ĐƯỜNG TƯƠNG LAI
Do con người không chủ động được (B), nên cũng sẽ không chủ động được (A). (A) (–) tác động đến B tạo ra trị số (B) càng (–) hơn, nếu thế (A) càng (–) hơn nữa, v.v... Những chu kỳ sai lầm đó đã tái diễn từ tổ tiên loài người cho đến tận ngày nay, như một chân lý (sai) hiển nhiên trong quá trình tồn tại của xã hội loài người vậy.
Muốn thoát khỏi vòng lẩn quẩn đó, con người phải nghiên cứu cách làm chủ (B) để từng bước chủ động được A và (A).
Để chủ động được (B) vào A, con người phải xây dựng Nội dung (B) giống với đặc tính cơ bản của A, là Lương Tâm, Hạnh Phúc hay là Chân, Thiện, Mỹ, v.v... Nó giống như con người vẫn thường hay khuyên nhau phải làm điều thiện, điều lành, ích nước, lợi dân, “đừng gieo gió mà gặp bão”, v.v..., mà con người hay gọi chung chúng như là những lẽ phải cần được tôn trọng ở đời.
Nếu như thế, từ lâu con người vẫn dùng các lẽ phải như trên, nhưng sao vẫn không chủ động được (A)?
Đúng như vậy! Tuy rằng từ lâu con người vẫn dùng chúng, không những thế đó là những lẽ phải đã được nghiên cứu rất kỹ, nhưng vẫn không chủ động được (A); là vì con người chưa nhận thức và làm chủ được cơ chế vận động giữa A và B như thế nào. Hay cũng có nghĩa, con người chưa định được bản chất thật của sự sống con người là gì?
Do chưa chủ động được (A) hay chưa công nhận có A, hay có công nhận nhưng theo những quan điểm tùy tiện, siêu hình, v.v... thiếu các minh chứng khoa học, nên tất yếu sẽ dẫn đến sự hình thành các lẽ phải không đồng bộ và hay có tính triệt tiêu nhau. Có lẽ phải có lợi cho A, nhưng cũng có cái hại A mà con người không biết; nên cuối cùng, tổng kết lại theo chiều dài lịch sử đến ngày nay, thì (A) có lẽ đang bị âm dần với thời gian.
Lẽ phải nhân tạo phần nào có tính thiện, là nhờ sự tác động bẩm sinh của các thông tin (A) hay (1) đầu tiên. Chúng luôn mang tính thiện, lương tâm và hạnh phúc, một cách chân lý nhất cho mỗi B của con người.
Như thế, vấn đề là làm sao tạo và duy trì được (B) luôn giống như (1), là thành công. Trẻ em thường có nhiều (1) (các thông tin đầu tiên từ A), nên người lớn dễ tìm thấy ở trẻ em những đồng cảm hạnh phúc hồn nhiên và tinh khiết, nhiều hơn so với người lớn quan hệ với nhau.
Muốn xây dựng được (B) giống (1), thì con người phải xây dựng chủ động một mô hình lẽ phải khoa học sao cho phát hiện được các mâu thuẫn phi lô-gíc của tất cả các mô hình lẽ phải khác nhau; để cuối cùng, chứng minh sao cho sự tồn tại của mô hình lẽ phải khoa học còn lại, là duy nhất đúng cho xã hội loài người.
Lẽ phải, là nói về cái đúng trong quan hệ giữa con người với con người, cũng có nghĩa nói về quan hệ đạo đức giữa con người với nhau.
Vậy, nền tảng để xây dựng mô hình lẽ phải có giá trị chân lý cao nhất, có cơ sở khoa học nhất, là dựa trên nguyên tắc: “mọi người không ai được XÂM PHẠM QUYỀN SỐNG CƠ BẢN và HẠNH PHÚC của người khác”.
Có nghĩa là, con người trong quan hệ với nhau chỉ có quyền GIÚP NHAU SỐNG HẠNH PHÚC nhiều hơn mà thôi. Ngày nay để thực hiện quyền đó, có người cho rằng phải giúp nhau bằng củi tạ, roi mây, chổi chà, súng ống, bom đạn bắn vào nhau, giết hại nhau, v.v..., thì mới mong đem lại kết quả tốt đẹp cho nhau (!?). Nhưng cũng trong thời đại ngày nay, không phải ai cũng đồng tình với các biện pháp đó.
Để tránh sự mơ hồ trên, thì sự giúp nhau kia phải chăng nên dựa vào nguyên tắc: giữa con người với nhau phải lấy tranh luận bình đẳng công khai làm chuẩn. Để cuối cùng, con người muốn tìm ra kết luận đúng hay sai thuộc về ai, thì nên dùng hai điểm tựa để phán xét: một là tính hợp lý, khoa học, không mâu thuận trong lý giải vấn đề, và hai là phải có đa số người đồng tình một cách công khai và bình đẳng.
Để đạt kết quả trước mắt thì dùng điểm tựa thứ hai giải quyết, nhưng để đảm bảo kết quả đúng lâu dài thì phải chú ý sử dụng điểm tựa thứ nhất. Nếu thấy lý đúng thì công nhận ngay, nếu thấy sai thì phải để lại tiếp tục theo dõi và điều chỉnh lại cho thật đúng. Hay khi lẽ phải đã được công nhận là đúng, thì cũng phải để tâm tiếp tục theo dõi để phòng khi nó đúng vì ngộ nhận, hay nó đã thành sai vì thực tế đã đổi khác.
Tuy nhiên, ngày nay con người có thể gây hại cho nhau rất đa dạng và vô hình, mà không dễ gì chỉ qua các lý trên là sẽ khắc phục được. Vậy, có kiểu lẽ phải nào để cho mọi vấn đề đều có thể được giải quyết trong ôn hòa, không dùng đến bạo lực được không? Hay ngày nay, nhiều người đã quen hại nhau trước bằng quyền lực, vậy nay chỉ với cách dùng lẽ phải ôn hòa, thì liệu có thể ứng phó hiệu quả mọi vấn đề được chăng?
Sự bạo ngược trên thuộc về thói quen đề cao cách sống hưởng thụ vật chất, có trong các Lẽ Phải Vật Chất gốc B, đang chiếm vị trí ưu thế trong các cách sống của số đông con người ngày nay. Dó đó, muốn hóa giải vấn đề trên chỉ bằng các lý lẽ ôn hòa để tìm một chiến thắng tức thời và toàn diện lâu dài, điều đó e rằng sẽ rất khó.
Song, nếu tạo hóa đã tạo ra thế giới loài người là để tồn tại và hạnh phúc, thì trong quan hệ con người với nhau không phải lúc nào cũng bạo lực và hại nhau, mà phải có những lúc bình yên để sống và phát triển.
Từ những khoảng trống hòa bình đó, con người sẽ lợi dụng để xây dựng thành công mô hình lẽ phải mới, LẼ PHẢI TINH THẦN khoa học có gốc phát triển từ nền của Tâm A.
Trong điều kiện hòa bình, thì con người dễ dàng qui định và phát hiện, ai gây hại nhau trước, ai động vũ khí trước là sai trái, là phạm luật thiện ác, là mầm móng độc đoán vì quyền lợi cục bộ ích kỷ, có tính chống lại quyền lợi sinh tồn của người khác, v.v... Để từ đó, dư luận hòa bình và hạnh phúc có điều kiện chọn ra, Lẽ Phải Tinh Thần hay Lẽ Phải Vật Chất là cần thiết, để có thể giữ cho sự sống con người luôn được trong hòa bình và hạnh phúc.
Khi có được môi trường hòa bình trên, Lẽ Phải Tinh Thần phải chứng minh thành công tính chân lý của mình so với các lẽ phải đã có. Nếu Lẽ Phải Tinh Thần đúng, mọi người sẽ chọn để tin rằng, sự sống con người có thể tiến về tương lai trong hòa bình, hạnh phúc và phi bạo lực vĩnh viễn. Và như thế, Lẽ Phải Vật Chất sẽ bị xóa mất sự tồn tại của nó, mặc dù nó đã tồn tại từ rất lâu trên hành tinh Trái Đất này.





Phần III

LẼ PHẢI T
1. LẼ PHẢI T
Mọi con người sinh ra đều tìm cho mình một mục đích để sống. Có người tìm mục đích trong miếng ăn hằng ngày, có người sống vì người thân, có người sống vì đồng bào dân tộc, có người sống để làm giàu, có người sống vì cái lợi trước mắt cho thiểu số người, có người sống vì cái lợi lâu dài cho cả loài người, v.v...
Tùy mỗi mục đích sống đó mà mỗi người hình thành riên cho mình một quan điểm lẽ phải để bảo vệ nó, như bảo vệ một lẽ sống hay một điểm tựa cho ý nghĩa sự sống của mỗi đời người. Nếu như rủi thay lẽ phải đó tình cờ bị người khác cản trở một cách vô lý, thì tùy khả năng mỗi người, sẽ có thể có sự chống lại sự vô lý đó bằng cả tính mạng của họ.
Xã hội văn minh ngày nay với điều kiện học tập rất dồi giàu và phong phú, sự nghe ngóng thông tin được thuận lợi nhiều nguồn, thì con người trong thời đại văn minh sẽ càng dễ phát triển đa dạng về nhận thức, nên cũng dễ sinh va chạm lẽ phải với nhau hơn. Có khi chúng xảy ra công khai, có khi chúng để bụng xảy ra ngấm ngầm chỉ chờ ngày bộc phát theo ngẫu nhiên, hay theo một dự định đã có chuẩn bị từ trước để phân định hơn thua, hoặc đúng sai, trên dưới, trước sau, v.v...
Những va chạm như vậy sẽ trở thành phức tạp khi trong đó có người muốn dùng uy quyền, để bắt người khác phải nghe theo lẽ phải của mình thích chọn. Nếu như lẽ phải của người này có thể trùng hợp với lẽ phải của người áp đặt kia, thì đó là một may mắn; nhưng nếu rủi như không trùng, thì ắt là “người yếu hơn” phải chịu khó... im lặng, cam chịu nhẫn nhục nếu không muốn chuốc lấy họa vào thân!
Sự thật, con người sinh ra ai cũng muốn được sống với cái lẽ phải mà mình đã lựa chọn, không ai muốn phải chịu thiệt cả. Nhưng do nỗi sợ bị mất sở làm, mất lương, đói khổ, v.v... và để tìm chỗ làm khác đâu phải là chuyện dễ; nên cuối cùng vì sự sống, vì gia đình, vì bao người thân khác, v.v..., con người có thể phải chịu đầu hàng trước các “lẽ phải áp đặt” ấy.
Và cũng sự thật là, khi trong một xã hội văn minh hiện đại có một người ngã xuống thất nghiệp, sự sống trở nên bị khốn khó, ngặt nghèo, v.v..., thì ai lo, ai giúp được họ? Không ai cả! Hay dù có giúp đi nữa thì điều đó chưa phải là một nguyên tắc, chưa phải là một điểm tựa hiển nhiên, đủ để đem lại một sức sống cơ bản thật sự mà mọi con người “khốn khó” đều có thể đặt niềm tin hướng về đó, mỗi khi cần có sự cứu giúp.
Đó là cái khó Vật Chất của người bị hoạn nạn về kinh tế. Từ cái khó đó, con người mới trách sang những người thừa ăn, thừa mặc hay những người giàu về kinh tế. Không những họ trách không, mà có khi họ còn kết tội những người giàu ấy nữa.
Điều đó làm cho người giàu đâm ra lo lắng và cũng cảm thấy khó khăn trong cuộc sống. Người giàu vừa phải lo bị kết tội, vừa phải lo làm việc nhiều hơn nữa vì sự cạnh tranh sinh tồn, v.v... nên sức sống của họ cũng luôn bị đe dọa. Ngoài ra, họ cũng lo... tiền của đã nhiều phải tiêu sao cho hết, cho đáng công sức bỏ ra, cho lẽ đời xứng với giá trị và ý nghĩa của nó, cho giấc mơ hạnh phúc trở thành hiện thực, v.v...; trong khi đó đời người sao cũng mau hết, và sau cái chết con người sẽ đi về đâu, hiện tại là gì, v.v...?
Đó là cái khó Tinh Thần của người đã thừa về kinh tế, nhưng biết suy nghĩa. Còn người kém nghĩ thì lao vào cuộc, tung tiền như nước, bất kể mọi chuyện... miễn là đã tay, sướng mắt để sau đó... kết thúc một đời người! Người ta không biết như thế là kẻ có tội hay là người vô tư, nhưng hình như chưa ai chứng minh đó là một “kiểu sống lý tưởng”!
Tất cả đều do lẽ phải của mỗi người quan niệm, chúng như hãy còn xa nhau về nội dung để rồi người phung phí quá trớn, người túng thiếu cùng cực. Và họ đã không thể gặp nhau tại “một điểm”, mà phải chăng nơi đó mới đích thực là cái cứu cánh cần phải đạt của mỗi người trong đời?
Điểm gặp nhau đó mang tên Lẽ Phải T hay Lẽ Phải Tinh Thần.
Nếu gọi mọi lý lẽ mà cuối cùng vẫn không giúp được con người có thể gặp nhau tại một điểm chung hữu ích, để tạo điều kiện hổ trợ cho nhau xây dựng một giá trị sự sống trọn vẹn, là Lẽ Phải Vật Chất; thì Lẽ Phải Tinh Thần sẽ giúp con người thực hiện thành công những ước vọng đó.
Lẽ Phải Vật Chất có nguồn gốc hình thành tại B quên A, nên nó có khuynh hướng chống lại A bằng sự áp đặt của nó. Nó chống lại hay áp đặt đối với A, không phải vì nó ghét, muốn hại A, v.v... mà chì vì nó không biết A là gì, ở đâu, như thế nào. Hay có biết A nhưng biết không rõ ràng, nên chống lại A vì cảm thấy A hại B. Nhưng chống lại A, tức là con người đã vô tình chống lại cái nôi sản sinh ra nguồn sống hạnh phúc cơ bản, cần thiết cho sự phát triển sức sống toàn diện của mỗi con người.
Vậy, đặc điểm của Lẽ Phải Vật Chất là trong quan hệ con người hay dùng quyền thế và bạo lực để áp đặt lên nhau bằng các lẽ phải mệnh lệnh, ý muốn chủ quan v.v... Song cuối cùng, mặc dù về hình thức con người do tình thế bắt buộc phải chấp nhận các áp đặt uy quyền và bạo lực kia, nhưng trong thực tế, họ vẫn chờ dịp để bộc lộ sự dồn nén muốn nổi loạn của mình, bằng một nội dung Lẽ Phải Vật Chất khác phù hợp với sự lựa chọn riêng tư của họ hơn. Và khi đó...
Chúng sẽ tạo ra những lật đổ chu kỳ; thế hệ này bị lật đổ đến thế hệ Lẽ Phải Vật Chất khác đứng lên lật đổ lại, để rồi lại mở đầu cho một chu kỳ nổi loạn khác tiếp nối v.v... Chúng cứ tiếp diễn như thế, trong suốt tiến trình lịch sử phát triển của loài người.
Do Lẽ Phải Vật Chất đặt nền tại B, mà B do bản chất phụ thuộc A, nên mọi thất bại của lý gốc B đều lần lược bị đổ là do có mầm giật dây tại A. Nhưng, do A từ lâu giật dây nổi loan chưa thông qua sự nhận thức của con người, nên mọi sự nổi loạn thành công đều sẽ không mang đến những giá trị hạnh phúc toàn diện và bền vững cho xã hội loài người. Phải chăng đó là một kết quả hiển nhiên và cũng là một sự thách đố cho xã hội loài người văn minh tiến bộ.
Nếu ngày nay, con người xây dựng thành công Lẽ Phải Tinh Thần đặt nền tại A, thì khi A giật dây, nó sẽ không thể tự lật đổ chính nó, mà chỉ có thể làm cho nó hoàn chỉnh hơn lên. Điều đó có nghĩa: khi đó con người sẽ có đủ điều kiện để phát triển vững bền, ổn định và hạnh phúc; không còn phải sợ những biến cố nguy hại thất thường ngoài ý muốn hay ngoài sự hiểu biết, có thể đe dọa sự phát triển bền vững của sự sống con người và xã hội.
Lý của A là sự phát triển tự nhiên, nên nó không có khuynh hướng áp đặt ai mà ngược lại tạo điều kiện cho mọi lý khác phát triển một cách hợp lý. Bản chất của lý A là phát triển nhanh hơn cả sự phát triển của lý B, nên không có chuyện lý B muốn nổi loạn với lý A như trường hợp của A đối với B.
Tuy A của mọi người đều giống nhau về bản chất hay nội dung cơ bản, vì cùng là sản phẩm nguyên thủy vô hình của tạo hóa đối với con người; nhưng khi nó phải diễn đạt sang B để ra 1, thì chúng sẽ trở thành khác nhau muôn hình muôn vẻ, vì môi trường sống phản ánh vào B khác nhau của mỗi người đã không ngừng làm A của mỗi người cũng phát triển đa dạng khác nhau.
Lẽ Phải Tinh Thần tuy về hình thức biểu hiện vô cùng đa dạng như Lẽ Phải Vật Chất, nhưng khác về bản chất; vì chúng chỉ tạo thuận lợi cho nhau cùng đạt đến mục đích chung do A đã qui định thống nhất từ trong bản năng tự nhiên của mỗi người, như một thông tin tất yếu của Lý Lẽ Tạo Hóa áp đặt cho mỗi con người vậy.
Như vậy, Lẽ Phải Tinh Thần của một cá nhân nào đó có thể về hình thức sẽ không giống với bất kỳ Lẽ Phải Tinh Thần của mọi cá nhân nào khác, nhưng chúng phải đều giống nhau về nội dung cơ bản: “đó là vì sự sống hạnh phúc của mỗi người cũng như của mọi người vậy”.
Khác với Lẽ Phải Vật Chất là cố đi tìm một sự qui định thống nhất về một kiểu mẫu hình thức lẽ phải chung nào đó, để áp đặt hay bắt buộc con người phải nghe theo; Lẽ Phải T chủ trương phát triển tối đa các hình thức lẽ phải khác nhau, miễn là chúng được thỏa hiệp thành các đường ranh giới trong sự sống chung công bằng, hòa bình và hạnh phúc giữa mọi người với nhau. Hay chúng được thực hiện theo nguyên tắc: “Không vi phạm đến quyền sống cơ bản của nhau và tạo điều kiện cho nhau phát triển một cách hợp lý nhất, vì các lợi ích riêng và chung một cách hợp lý nhất, hay tức là phải biết tôn trọng đến các lẽ phải T của mỗi người vậy.”
Như vậy, nếu khi mỗi con người có cách sống riêng, có nhận thức riêng về các lẽ phải ở đời, nhưng do khách quan mà chúng đã phát triển bị trật ra ngoài nội dung cơ bản của A; thì vấn đề là làm sao tạo điều kiện cho chúng được phát triển theo một quĩ đạo hợp lý của lẽ phải T, bằng một phương tiện ngôn ngữ hiệu quả và phi bạo lực nhất định.
2. LẼ PHẢI V
Lẽ Phải Vật Chất hay Lẽ Phải V có tính đối nghịch với Lẽ Phải T. Gữa Lẽ Phải V (hay V) và Lẽ Phải T (hay T) có những khác biệt như sau:
* Trong T, con người làm chủ được hạnh phúc Vật Chất và hạnh phúc Tinh Thần. Trong V, con người thường chỉ chú trọng xây dựng hạnh phúc Vật Chất.
T ý thức được bản chất sự sống con người, nên tạo điều kiện phong phú để con người dễ dàng tranh luận tự do và bình đẳng với nhau, để tìm ra con đường sống tốt đẹp và công bằng nhất cho mọi cá nhân.
V không ý thức được bản chất sự sống con người, nên hạn chế điều kiện để con người được tranh luận tự do, hay chỉ cho tranh luận tự do trong khuôn khổ của một kết luận trái với tự nhiên nào đó, nên con người dễ bị lẩn quẩn vào những khó khăn và bế tắc, làm lãng phí không ít thời gian, v.v... và sự sống.
* V chú trọng sự ngăn cấm bằng sự áp đặt quyền lực, và rèn luyện con người thói quen biết chấp nhận, cam chịu và im lặng theo những áp đặt đó.
T chú trọng xóa mọi sự áp đạt uy quyền v.v... và những cam chịu trong bất công, mà ưu tiên rèn luyện cho con người có đủ khả năng diễn đạt ra mọi nguyện vọng sống của mình, để sẵn sàng tham gia tranh luận và tìm ra lời giải tốt nhất cho mọi vấn đề bế tắc của sự sống bản thân hay đối với các vấn đề xã hội liên quan.
* T chú trọng đề cao giá trị con người, thông qua cách sống có khả năng lý giải sự bình đẳng và hạnh phúc của mỗi người trong mọi người một cách hiệu quả và khoa học nhất, thì kết quả sự sống mới thật sự có ý nghĩa đối với mỗi đời người.
V chú trọng đề cao giá trị con người thông qua khả năng kiếm tiền làm giàu là chính, còn các giá trị về nhân cách như vẫn còn bế tắc chưa có lối thoát: V hay dùng những lý giải có tính che mắt hơn là để làm sáng tỏ những sai lầm mang tính bản chất từ trong các định hướng phát triển sự sống theo cách của V.
* V dễ bị rơi vào hai thái cực của sự sống: một là quá ham làm giàu và hưởng thụ mà trở thành bất ổn và tội phạm, v.v...; hai là sợ làm giàu, sợ hưởng thụ nên dễ sinh ra bảo thủ, trì trệ, giảm sức sống, v.v...
T giải quyết bằng cách: làm giàu cân đối về vốn tiền và cả về vốn hiểu biết nghệ thuật sống theo khoa học tinh thần, để sao cho con người vừa có được cuộc sống hạnh phúc về tiện nghi mức sống Vật Chất, vừa có được cuộc sống hạnh phúc về tiện nghi mức sống Tinh Thần (khả năng lý giải).
* V kêu gọi nhiều về giáo dục nhưng kết quả vẫn không cao, lý thuyết như vẫn còn xa với thực tế; con người vẫn còn là nạn nhân của sự cách biệt mức sống, của sự thấp cổ bé miệng cô thế, của sự đứng bên lề của những cỗ máy phồn hoa đô hội, của những văn, thơ, nhạc, đạo đức, hay các lý lẽ trau chuốt, bóng bẩy, v.v...; mà chúng hình như chỉ để làm yên lòng những người “đang có”, hơn là có tác dụng giải quyết hiệu quả đời sống của những người còn “đang thiếu”.
T xem giáo dục là chiếc chìa khóa đủ khả năng lý giải trực tiếp mọi hiện tượng bất công đa dạng trên; đó như là một điều kiện tiên quyết để xây dựng thành công một mô hình giáo dục mới thật sự đi vào quỹ đạo của sự lý giải triệt để nhất mọi vấn đề đời thường, trong các xã hội ngày nay.
* Trong quan hệ con người với nhau, khi V thất lý thì chuyển sang quy kết đối phương là hạ đẳng, là chậm tiến, là ngoan cố, là đáng bị ngăn cấm và trừng phạt, v.v...
Trong quan hệ của T không thể có ai là người thất lý, mà chỉ có sự đủ lý thì cùng hưởng, thiếu lý thì cùng nhau chia sẻ, cùng tìm ra một thỏa thuận thống nhất công khai, hợp lý, v.v... để cùng chịu trách nhiệm.
* V thuộc về Vật Chất, có tính cố định, khó linh hoạt, nên có khuynh hướng đào tạo, rèn luyện và xây dựng cho con người có niềm tin một chiều về một tiêu điểm giá trị nhân tạo mang tính bất di bất dịch nào đó.
T thuộc về lý Tinh Thần, có tính thay đổi, linh hoạt, nên có khuynh hướng kêu gọi, thúc đẩy, đào tạo, rèn luyện và xây dựng cho con người thói quen tin ở tâm mình là chính; làm cơ sở cho sự hình thành niềm tin về quyền tự quyết của mỗi người, sao cho phù hợp với quy luật vận động của Tạo Hóa nói chung, của xã hội, của bản thân mỗi người nói riêng, là thành công.
* Do lý V cố định, dễ bị thất bại trước bản chất động của sự sống, nên con người dễ có tính sợ mất điểm tựa trong cuộc sống; vì thế, sinh ra không thích lý giải các vấn đề nan giải bằng những chứng cứ công khai, bằng sự đề cao danh dự trách nhiệm cá nhân, bằng sự tôn trọng quyền tranh luận bình đẳng giữa các bên mâu thuẫn với nhau, v.v...
Do lý T có bản chất động cùng nhịp với sự sống, nên không bao giờ sợ mất điểm tựa; do đó, luôn mong muốn từ bản chất giải quyết các công việc sao cho thông lý đạt tình, kể cả bằng những cách mà trong lý V phải thường né tránh.
Tóm lại, lý V chưa tìm ra lối thoát cho quyền được sống bình đẳng giữa mọi người với nhau. Lý T lý giải vấn đề bằng sự nâng cao trình độ nhận thức của con người về Lẽ Phải T cơ bản.
3. CON ĐƯỜNG TỪ V SANG T
V và T có chung một mục đích, là đi tìm sự sống hạnh phúc cho con người. Tuy nhiên, cách tìm của mỗi bên là hoàn toàn khác nhau.
V tìm khả năng hưởng thụ hạnh phúc bằng sự nâng cao đời sống Vật Chất hình thức bên ngoài. T thì cho rằng, sự hạnh phúc đó chỉ là phương tiện để con người tiến lên một giá trị hạnh phúc cao hơn, đúng nghĩa hơn, triệt để hơn; đó là sự hưởng thụ hạnh phúc bằng sự phát triển mức sống Tinh Thần tại A, làm nền cho mức sống Vật Chất phát triển tại B của mỗi người.
Gộp chung cả hai loại, chúng ta có công thức:

        HẠNH PHÚC
                    =     CÁI TÂM + TIỀN BẠC                (CT. 11)        (ước mơ căn bản)

Nhưng:

              SỰ CHÂN    SỰ ĐỒNG CẢM    SỰ HIỂU BIẾT            THỜI
    CÁI TÂM  =          +                      +                    +
            THẬT          TÌNH NGƯỜI          TOÀN DIÊN và KHOA HỌC      GIAN

                                                        CT. 12)
Và tùy theo sự hình thành cái tâm, mà mỗi người sẽ có được cách sống:

                HOÀN CẢNH                Ý MUỐN hay            THỜI
        CÁCH SỐNG =                        +                +
                MÔI TRƯỜNG SỐNG        MỤC ĐÍCH SỐNG        GIAN

                                                        (CT. 13)

Như vậy, trong thời đại văn minh, một con người muốn đạt giá trị hạnh phúc lý tưởng, thì trong sự sống phải có cái tâm. Muốn có cái tâm, con người không đơn giản chỉ cần có sự trong sạch vô tư và sự nhiệt tình vì mọi người không là đủ, mà còn phải biết rèn luyện khả năng nhận thức về sự sống nói chung một cách toàn diện và khoa học.
Tùy thuộc vào vốn trau dồi các yếu tố trong (CT. 12) về cái tâm, mà con người hình thành ra cách sống tích cực hay tiêu cực. Từ cách sống của mỗi người, mà hình thành ra các sinh hoạt đời thường trong cuộc sống thực tế, với những thất bại hay thành công, ác hay thiện, sai hay đúng, lẽ phải hay không lẽ phải, v.v... của mỗi con người đó.
Vậy từ V sang T, cách đơn giản nhất là tìm hiểu và ý thức được các hiện tượng sinh hoạt hằng ngày của mỗi con người mang ý nghĩa gì, có nội dung ra sao so với T. Kế đến là sự tranh luận, trao đổi, tìm hiểu đâu là cách giải quyết tốt nhất cho vấn đề từ V sang T, theo tùy hoàn cảnh, tùy trường hợp thực tế của mỗi người.
Cách đơn giản trên là chúng ta chọn con đường đến T thông qua (CT. 13); tức là tìm hiểu hoàn cảnh thực tế đang sống của mỗi người, để sau đó thay đổi dần các nội dung suy nghĩ và hành động ấy cho đến khi làm chủ được cái tâm con người, (CT. 12), là thành công. Đây là cách thích hợp nhất cho mọi đối tượng, không phân biệt trình độ, lứa tuổi, thành phần xã hội, v.v..., và nó cũng mau đem lại kết quả sống hạnh phúc ngay trước mắt, tương ứng với điều kiện mức sống thực tế của mỗi người.
Cách đến với T bằng con đường vất vả hơn, là sự rèn luyện trực tiếp cái Tâm từ (CT. 12), để đạt đến một giá trị hạnh phúc tuyệt đối và toàn diện hơn trong cuộc sống đời người. Nói cách khác, con đường (CT. 12) là con đường rèn luyện chuyên nghiệp mang tính chính quy, và con đường (CT. 13) là con đường phổ thông mang tính tiện dụng cho mọi người.
Giống như trong xã hội, có người sống bằng nghề võ sư, thể thao, hội họa, v.v... là chính, trong khi số người khác chỉ xem chúng như là những môn giải trí phụ, để làm tăng thêm ý nghĩa của cuộc sống vậy thôi.
Chúng ta gọi con đường (CT. 12) là Đường 12 hay Phức 12, và con đường (CT. 13) là Đường 13 hay Đơn 13. Cả hai đường đều dẫn con người từ V sang T đạt hiệu quả, phù hợp với điều kiện sống khách quan của mỗi con người. Như vậy, mọi người đều có thể tìm thấy được sự bình yên và hạnh phúc trong cuộc sống của mình, nếu như chấp nhận sự chuyển đổi từ V sang T trong nhận thức, theo như cách đã trình bày ở trên.
Mục đích của sự thay đổi từ V sang T là để con người có thể xây dựng một đời sống hạnh phúc toàn diện và bền vững hơn, trên cơ sở đi tìm một định nghĩa thống nhất về thế nào là “sự sống và hạnh phúc”, trong điều kiện con người không được dùng uy quyền và bạo lực để áp đặt lên nhau. Sự trau dồi nhận thức về Lẽ Phải T sẽ là sự mở đầu cho quá trình đổi thay đó.
Khác với đa số các lý lẽ đã có trong xã hội loài người, đường VT (con đường từ V sang T) không giới hạn vùng tranh luận bình đẳng để xây dựng sự hiểu hiết cho mọi người, trên nguyên tắc tất cả đều có thể đúng và tất cả đều có thể sai, chỉ trừ một giới hạn không thể vượt qua, đó là quyền được sống hạnh phúc của mọi người.
Như vậy, đường VT chỉ bị thất bại trong một trường hợp duy nhất, trường hợp tạo háo sinh con người ra “KHÔNG PHẢI ĐẾ SỐNG HẠNH PHÚC”! (?). Còn ngoài trường hợp trên ra, thì đường VT sẽ có nhiều khả năng giành thắng lợi trước các quan điểm khác về “con người và sự sống”. Vì bản chất của VT là tranh luận công khai không có vùng cấm, trong khi các quan điểm nhận thức khác đều có vùng cấm, và rất tránh tranh luận công khai và bình đẳng về các vùng cấm đó trước mọi người liên quan.
Bản chất con người là “Không Có Gì Quý Hơn Độc Lập Tự Do”, mà bản chất của Tự Do là không muốn có vùng cấm; hay chỉ chấp nhận vùng cấm khi con người đã được tự do tranh luận để hiểu ra, để nhận thức ra, để ý thức ra hay để công nhận ra “ĐÓ LÀ VÙNG CẤM!”.
Lịch sử phát triển nhân loại là lịch sử phát triển của các vùng cấm hiểu biết đối với con người, bị hẹp dần. Ngày xưa, con người bị cấm hiểu biết, bị cấm tranh luận chứng minh trái đất xoay quanh mặt trời, thay vì mặt trời xoay quanh trái đất.
Ngày xưa, con người bị cấm mổ xẻ để hiểu biết về các cơ chế cấu tạo bên trong nội tạng của con người, và cuối cùng vùng cấm đó bị bãi bỏ. Ngày xưa, nhà vua cấm mọi người bàn về các sai trái của vua, v.v... thì ngày nay mọi người đều có thể phân xử tội tổng thống và cả nhà vua. Ngày xưa, người da trắng mua người da đen, và cấm họ không được tùy tiện đến các vùng của da trắng; ngày nay người da đen có mọi quyền sống bình đẳng như mọi màu da khác, v.v...
Ngày xưa, con người nhìn lên Chị Hằng như một vùng cấm tuyệt đối đối với người Trái Đất, ngày nay con người đã cắm cờ trên đó. Ngày xưa, thực dân cấm người thuộc địa bàn chuyện yêu nước, xã hội tư bản ra sức cấm người dân tuyên truyền lý thuyết cộng sản; ngày nay thế giới đã có có nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ra đời.
Ngày nay, con người đang cố làm giảm dần các quyền cấm vô lý kiểu xưa, nhưng lại bị chi phối bởi một quyền cấm khác, khó hiểu hơn, vô hình hơn, quyền cấm của các... THÓI QUEN. Thói quen chạy đua hưởng thụ Vật Chất của thời đại văn minh, đã ngăn cấm con người ý thức ra sự hưởng thụ về Tinh Thần còn nhiều lần giá trị hơn. Thói quen tìm sự chiến thắng bằng uy quyền, đã ngăn cấm con người nhìn thấy con đường mở rộng quyền tự do tranh luận cho mọi người, đó mới là lối thoát rộng mở để con người hiện đại đạt đến sự thắng lợi trọn vẹn trước mọi bất công và đau khổ, vì sự sống hòa bình và hạnh phúc cho mọi đời người.
Vậy, VT là con đường giúp con người khai thông mọi thói quen không còn hợp thời, để chuyển sang mô hình thói quen mới hợp thời hơn. Nó vừa có ích cho sự nghiệp phát triển xã hội được thắng lợi hơn, vừa đem lại niềm vui hạnh phúc cho nhiều người hơn so với mọi hạnh phúc mà các thói quen có trước đã đạt được.

4. ĐƯỜNG ĐƠN 13
Đường Đơn 13 là con đường tu thân từ (CT. 13) để chuyển từ V sang T, thông qua sự điều chỉnh dần cách suy nghĩ và cách sống của con người.
Đây là con đường đơn giản, ai cũng có thể tham khảo để tự nghiên cứu và rèn luyện thành công. Đây là con đường bắt đầu từ cách nghĩ và sống của mỗi con người. Cách sống nào cũng phải có những biểu hiện nhất định về hành vi, thái độ, cảm nghĩ, lời nói, hành động, v.v... ra bên ngoài hình thức sống của mỗi người.
Để yêu cầu một người bỏ thói quen hút thuốc đã hình thành từ lâu, thì rất khó; nhưng nếu đề nghị bỏ hút trong một vài trường hợp, thì người đó có thể làm được.
Đối với cách sống của con người cũng vậy. Từ một người dân quê nếu kêu đổi ngay ra cách sống của người thành thị, thì không làm được. Nhưng nếu để ở thành thị lâu dần, thì người dân quê sẽ thành người thành thị không khó. Nếu vấn đề còn được con người cố ý chủ tâm thay đổi cách sống, thì kết quả mang lại càng nhanh hơn.
Cách thức chuyển đổi VT ở đây cũng tương tự như ví dụ trên. Tuy nhiên, sự khó khăn và công sức để thực hiện nó sẽ đòi hỏi nhiều hơn, phải nghiên cứu bài bản hơn và cũng phải có tính khoa học hơn.
Môi trường sinh sống thành thị lộ ra trước mắt dễ thấy, nên cũng dễ làm thay đổi thói quen cách sống của con người. Trong khi đó, môi trường T chưa có, khái niệm T thì rất trừu tượng, nên muốn làm thay đổi thói quen từ V sang T, chắc chắn sẽ là một việc làm với nhiều thử thách.
Tuy nhiên, cách hiểu nôm na VT là con người hãy sống phù hợp với lương tâm của mình, là cách hiểu mà gần như ai cũng có thể hiểu và thực hiện được; vì xã hội nào cũng có lương tâm của xã hội đó, con người nào cũng tồn tại một lương tâm riêng của người đó.
Nội dung Đường Đơn 13 có thể được hiểu từ (CT. 9) cộng với sự kết hợp của các nội dung đã trình bày, chúng ta có thể suy ra công thức đơn giản:
            CG = CÁI TÂM + |  LẼ PHẢI  |                    (CT. 9-1)
Có nghĩa, nếu trong các biểu hiện Hành Động của con người đều hợp với lương tâm, thì Lẽ Phải X sẽ (+); con người sẽ có cách sống phát triển gần với cái tâm, và sự sống hạnh phúc sẽ được kết trái dần. Nếu ngược lại, các Hành Động của con người trái với lương tâm, thì Lẽ Phải X sẽ (–), con người đang xa dần cái tâm, hậu vận sống sẽ không hình thành được hạnh phúc và sự sống sẽ trở thành vô nghĩa dần.
Như vậy đổi VT, theo cách hiểu đơn giản trên, là con người sống và Hành Động theo lương tâm của mình. Để sống được như vậy, có khi là khó đối với người này nhưng lại dễ đối với người kia.
Trong cuộc sống, ai cũng có nhiều lần đứng trước sự phân vân, một bên là cái lợi trước mắt và bên kia là sự lôi kéo ngăn cản của lương tâm. Nếu làm theo lương tâm thì con người được vui cái bụng, thanh thản tâm hồn, nhưng dễ... bị đói, bị khốn đốn về đời sống vật chất, v.v... Còn ngược lại, chỉ lách hướng lương tâm một chút (khó ai biết), thì sự sống thành công trước mắt thấy rõ, một sự đổi đời chẳng mấy chốc.
Hiện tượng làm hàng giả, quan hệ lừa đảo, làm việc vô trách nhiệm, bất công, chèn ép, gây khó, máy móc, không thấu tình đạt lý, thô bạo, dã man, v.v... là những Hành Động của dấu hiệu lương tâm đang bị khoét mòn dần.
Thông thường để hiểu: “sống theo lương tâm là một cách sống cao quý và tốt đẹp”, thì có lẽ ai cũng có thể đồng tình. Nhưng từ đồng tình để tiến đến thực hiện nó, điều đó lại là một vấn đề khác.
Có người rút ra kinh nghiệm rằng: “đời mà chỉ biết sống theo lương tâm, thì rõ là chưa hiểu đời!”. Hoặc: “thằng này con nọ như thế là dại khờ, kém hiểu, v.v...; mà đời là kẻ nào BIẾT thì sống, KHÔNG BIẾT thì dù lương tâm hay không lương tâm, khôn hay dại, ngoan hay lì v.v... thì cũng đều sớm muộn bị chung số phận rơi rụng!” (?)
Đó là các triết lý sống được hình thành một cách tự nhiên bên ngoài các văn bản hay các sách vở uyên bác, chúng như đang còn bận rộn với bao nhiêu giáo điều đang phải treo lơ lửng ở tận các trời mây... (!?).
Do đó, vấn đề ở đây là, không phải DẠY con người PHẢI sống theo lương tâm, PHẢI sống theo những lời giáo huấn hay những giá trị đạo đức này nọ, như những nhà mô phạm hay những vị đầy uy quyền và trách nhiệm đã và đang hay áp dụng; mà là chứng minh, vì sao con người phải làm và sống theo thế này mà không làm và sống theo cách khác, một cách khoa học, công khai và bình đẳng với nhau.
Ngày nay, phải chăng xã hội đang có nhiều người sống ngược với lương tâm? Đó có phải vì lý của con người về lợi ích của cách sống có lương tâm sao khó hiểu quá, đa dạng quá, nhiều nghĩa quá, mâu thuẫn quá, độc đoán, bạo lực quá, phải hy sinh thiệt thòi quá, xa thực tế sự sống đời thường quá, v.v... và lương tâm sao cũng có khi thủ đoạn hại nhau quá! (?)
Như vậy, nhiệm vụ của Đơn 13 là đơn giản hóa, cụ thể hóa, mạch lạc hóa, thống nhất hóa, hệ thống hóa, ích lợi hóa, thực tế hóa, công bằng hóa, phân minh hóa, v.v... và khoa học hóa lương tâm, để cho mọi người dễ bàn luận, dễ hiểu và dễ dùng; vì cái lợi cho chính bản thân người đó trước đã, trên nguyên tắc đã hài hòa với quyền lợi chung một cách hợp lý.
Mặt khác, theo minh giải trong các chương trước, sự phát triển Tinh Thần là tùy vào khả năng nhận thức về lẽ phải của mỗi người. Lịch sử chứng minh: lẽ phải thời nào cũng đều do những người có địa vị uy quyền trong quan hệ định ra, và những người khác thực chất chỉ có nhiệm vụ thi hành theo những khuôn lệnh đã quy định trên. Những lẽ phải như thế có thật đúng là lẽ phải chưa?
Từ (H.1) chương 8, chúng ta suy ra công thức:
            B = NHÓM I + NHÓM II                            (CT. 14)
Trong công thức trên, do nội dung Nhóm I và II của mỗi người đều khác nhau, nên B của mỗi người luôn khác nhau; suy ra, lẽ phải hình thành giữa mỗi người cũng khác nhau; tức là nhận thức về lương tâm của mỗi người cũng sẽ có khác nhau về hình thức, nhưng về bản chất nội dung thì bao giờ cũng giống nhau.
Vậy, dựa trên nguyên tắc nào để một lương tâm “uy quyền” này bắt các lương tâm “kém cỏi” khác phải biết cuối mình vâng theo? Dựa vào thành tích giàu sang, địa vị xã hội, tài năng hay uy quyền bạo lực, v.v... để áp đặt?
Thông thường, người ta dựa trên quyền chi phối sự sống bình yên của người này đối với người khác, để khống chế hay làm lệch hướng nhận thức lương tâm của họ. Có nghĩa nôm na là: “theo thì sống, chống chì chết!”; vì thế, đã có nhiều người phải theo nhưng không phải tất cả. Xã hội bao giờ cũng có sự phân cực như thế, tại sao?
Quy luật PHÁT TRIỂN CÂN ĐỐI của tạo hóa đã ngăn cản những nhà “uy quyền” thực hiện các ý đồ chủ quan của mình, muốn gom hết tất cả lương tâm mọi người lại dưới trướng của một quan điểm lương tâm, do các nhà “uy quyền” khởi xướng. Đó là một việc làm chủ quan và dễ vấp phải các nguy cơ thất bại; vì con người là một sinh vật đặc thù, có lương tâm phát triển tự nhiên theo bản chất sẵn có của nó, còn khác đi thì sẽ là sai lầm mà thôi.
Vì B còn bị chi phối bởi Nhóm I, – nó thuộc về Cái Tâm, nó thuộc về Hạnh Phúc nguyên thủy, nó thuộc về Lý Lẽ Tạo Hóa, nó thuộc về Quy Luật Quân Bình Âm Dương, và nó luôn nằm ngoài sự tác động chủ quan vô lý của con người –, nên nó sẽ là nguyên nhân trực tiếp tiềm tàng trong nội tâm của mỗi người, để sẵn sàng chống lại mọi nhận thức áp đặt chủ quan và sai lầm trong mọi quan hệ giữa con người với nhau, một cách tích cực và vô hình.
Khi con người tìm cách lôi kéo, hấp dẫn, áp đặt, uy quyền, khuyến dụ, lừa gạt, v.v... Nhóm I, để cho nó ngả về một nội dung lương tâm chủ quan và nhân tạo nào đó, thì lúc đầu con người có thể đạt được một số thành công nhất thời. Nhưng thời gian về sau, nhất định sẽ xuất hiện hai đối cực chống lại khuynh hướng tập trung nhân tạo đó:
Một là, từ hướng ngay bên trong những người đã được “thuần hóa” cách sống theo hướng lương tâm kia, khác với đặc điểm lương tâm của riêng họ.
Hai là, từ hướng những người không bao giờ chấp nhận sự “thuần hóa” đó của những nhà “uy quyền” trên.
Và cứ như thế, từ lịch sử này tiếp nối đến lịch sử nhân loại khác, con người vẫn triền miên rơi vào hai lực mâu thuẫn trên: một bên muốn tập trung, bên kia thì muốn thoát và chống lại. Để cuối cùng, nó tạo nên một sự vận động phát triển tương đối cân đối một cách vô hình, trong các xã hội khác nhau của các thời kỳ lịch sử phát triển xã hội khác nhau.
Xét về tiến trình phát triển theo quy luật tiến hóa của Con Tạo, thì đó là một hiện tượng tự nhiên và bình thường. Nhưng xét góc độ đời sống con người, nhất là xét ở phạm vi hẹp, ở phạm vi những nạn nhân trực tiếp của những mâu thuẫn xung đột đó, thì hậu quả mất mát là vô cùng to lớn, nặng nề và không thể chấp nhận được.
Vì vậy, đã đến lúc con người phải có thời gian và điều kiện để nhìn lại những vấp váp quanh co, vừa tốn kém, vừa lẩn quẩn, vừa phi lý, vừa lạc hậu và vô nhân đạo đó, để tìm cách thoát ra tầm nhìn hẹp và thiển cận ấy bằng một cái nhìn toàn diện hơn, quy luật hơn và có ích hơn.
Con người hoàn toàn có đủ khả năng thoát khỏi sự lòng vòng đó, nếu như những người có quyền thế kềm hãm, khống chế lương tâm người khác kia chịu buông ra, thì mọi chuyện sẽ sớm trở nên thuận lợi, công bằng và hạnh phúc biết bao. Cách sống hai mặt sẽ biến mất, con người sẽ không còn phải sống nặng về hình thức với nhau, mà quên đi Cái Tâm mới là vấn đề thực chất của cuộc sống vậy.
Tuy nhiên, lực khống chế nhân tạo các khuynh hướng lương tâm khác nhau của con người, nếu xét góc độ tích cực, thì nó lại là nguyên nhân tạo động lực khách quan thúc đẩy nhất thời sự phát triển năng động của con người và xã hội. Do đó, khi con người muốn xóa đi một lực tác động, thì cũng phải đồng thời thay vào đó một lực tác động tương đương; nếu không, sự hụt hẫng điểm tựa của lương tâm nhận thức (tâm thức) của con người, sẽ có thể trở thành một đại họa khác.
Bởi, như chúng ta đã diễn giải ở các chương đầu, bản chất vận động của B hay của Tinh Thần là không ngừng; do đó, nếu nó bị thiếu một nội dung tư duy có hệ thống và trật tự cung cấp cho nó, thì tức thời tự nó sẽ cung ứng lấy những nội dung tư duy tự phát một cách vô tội vạ, và tất yếu sẽ dễ gây rối loạn cho đời sống của con người và xã hội.
Như vậy, vấn đề của Đơn 13 là tìm ra một lực tác động khác thay thế, hay đó chính là lực của LƯƠNG TÂM TỰ NHIÊN và KHOA HỌC. Lực mới đòi hỏi sự rèn luyện tự giác của Tinh Thần mỗi người, sao cho sự sống của mỗi người phải chịu sự tác động chính của lương tâm mình, đồng thời phải có sự phối hợp hài hòa với các lương tâm khác tạo thành một hợp lực thống nhất hợp lý.
Để hình thành lực tác động khoa học này, cách đơn giản nhất là xưa nay nếu con người chỉ quen xem trọng ý kiến của một số nhà “uy quyền”, thì nay hãy xem như mọi con người đều có “uy quyền”, trong đó có bản thân mình, và cũng đều ĐÁNG được xem trọng ý kiến như nhau, thì Lẽ Phải T cần tìm sẽ xuất hiện dần.
Như đã nêu, khi tất cả mọi người cùng có quyền đưa ra ý kiến như nhau, cũng có quyền đòi hỏi được thực hiện nó như nhau, thì tức thời một hiện tượng rối loạn các mâu thuẫn sẽ lại bộc phát thành một nguy cơ phức tạp mới, nếu con người không biết kịp thời tổ chức hợp lý chúng lại với nhau.
Do đó, lúc này con người cần có một cơ sở chứng minh: khi quyền ý kiến của mọi con người đều được tôn trọng, thì vấn đề cần được tổ chức theo mô hình trật tự nào? Nếu chọn mô hình ĐƠN 13, được hậu thuẫn bởi mô hình lý thuyết của Khoa Học Tinh Thần, chúng ta sẽ có các ưu điểm như dưới đây:
Mô hình Đơn 13 giúp mọi con người đều có quyền nói ra nguyện vọng sinh tồn của mình, và không đồng ý cho ai có thể dùng quyền áp đặt những ý chủ quan của mình lên quyền của người khác, khi chưa được học công nhận là đúng. Và điều cần thiết khi đó, Đơn 13 phải nêu các quan điểm gợi ý của mình trước về các vấn đề, nhằm để rộng đường tham khảo và chọn lựa cho mọi người.
Nếu Đơn 13 thống nhất được các mâu thuẫn khác nhau trên, thì mọi người sẽ được tôn trọng bình đẳng về quyền ý kiến sinh tồn của mình. Nhưng nếu Đơn 13 thất bại, thì con người sẽ phải quay về tiếp tục chấp nhận sống theo mô hình cũ... ưu tiên chọn một số ý kiến “uy quyền” làm cơ sở “áp đặt” lương tâm cho mọi người khác, hay sử dụng mô hình “phát triển tự do vô trật tự từ các khuynh hướng lương tâm đa dạng khác nhau v.v...” làm cơ sở phát triển...!
5. MÔ HÌNH ĐƠN 13
Mỗi con người sinh ra đều cần chọn cho mình một mục đích để sống và để theo đuổi; nếu thiếu nó, con người sẽ như bị mất điểm tựa để sống, hoàn thành như bị hẫng, gây hoang mang, hoảng sợ, v.v...
Điểm tựa đầu tiên là con người cần có một mức sống cơ bản, sau đó con người cần một định hướng tiếp theo để phát triển sự sống của mình đến hạnh phúc vô hạn; bởi do tính bản chất vận động của não người, là không ngừng đổi mới và tiến về phía trước (xem phần II) đến vô tận.
Hay sự định hướng điểm tựa tiếp theo đó của con người, bao giờ cũng vẫn là SỰ MƯU CẦU VỀ MỘT KHÁI NIÊM HẠNH PHÚC TUYÊT ĐỐI NHẤT.
Để có thể đạt đến ước mơ hạnh phúc trên, con người thường dùng (CT.4) làm điểm xuất phát cho hành trình phấn đấu của mình. Trong đó, mỗi người đi tìm mọi X sao cho có thể đạt nhanh nhất đến đỉnh cao hạnh phúc mơ ước của đời người.
Thế nhưng mỗi nấc thang X là đã phải trả giá gần nửa đời người, đến nấc tiếp theo thì cũng vừa kịp một đời người phải ngã xuống. Cũng có người bước nhanh, có người bước chậm, nhưng nhiều lắm cũng chỉ vài nấc thang là đã ngốn trọn một đời người.
Cứ như thế, người này đến người khác ra đời. Lịch sử thời gian này qua đi, lịch sử hiện đại mới xuất hiện. Con người lại tiếp tục thử thách sức mình qua vài nấc thang, rồi lại lặng lẽ bước vào cõi hư vô với bao kinh nghiệm buồn vui, hay dở, thành công hay thất bại mang theo. Để đến nay, con người vẫn tiếp tục còn thắc mắc: “Tại vì sao sự sống của những con người thời đại ngày nay vẫn còn đang có nhiều điều chưa ổn?”.
Và phải chăng câu trả lời sẽ được tìm thấy từ (CT.4) khi chúng ta hãy thử thay X = TIỀN. Ngày nay, nhân loại đã sản sinh ra được nhiều nhà tỉ phú giàu nhất hoàn cầu. Nhưng khi đã đạt đến tột đỉnh vinh quang của “Tiền”, con người mới nhìn lại và không hiểu nó là nấc thang của vị trí nào trong toàn bộ các nấc thang dẫn đến đích “hạnh phúc lý tưởng” của đời người?
Mặc dù thế, khi các nhà tỉ phú nhìn sang bên kia, thì lại thấy có vô số người đang tranh nhau vượt mọi khó khăn để mong được tiến đến đỉnh cao của các nấc thang danh vọng của các nhà tỉ phú may mắn ấy. Cuối cùng, các nhà tỉ phú có thể an ủi với nhau rằng: “điều gì mọi người mơ ước có mà mình đã có được sự hiếm có đó, thì điều đó ắt là một hạnh phúc quý giá của đời người vậy!” (?)
Bởi thế, loài người có thêm một triết lý sống: “hãy có những gì mọi người mơ ước chưa có”, thì đó là ý nghĩa của hạnh phúc mơ ước mà tạo hóa đã ban cho những con người may mắn đó vậy! (?)
Tuy nhiên, dù con người đã nghĩ ra nhiều cách thoát cho vấn đề, nhưng cuối cùng điều gì không đúng thì vẫn là không đúng. Mọi sự chắp vá mơ hồ, phải chăng sẽ mãi luôn nằm ngoài sự định nghĩa hoàn chỉnh về: “thế nào là nấc thang lý tưởng cuối cùng của mỗi đời người chân chính?”
Vấn đề sai lầm ở chỗ; ví dụ khi con người chỉ biết chú trọng mục đích sống là vì “Tiền” là trên hết, thì tại (CT.14) ta có:
B= NHÓM II
vì lúc này Nhóm I đã: NHÓM I # 0 (Do con người không còn xem trọng cái tâm.)
Ngoài ra tại (CT.3), chúng ta có mục đích nào thì cảm xúc ấy, mục đích “Tiền” thì ứng với cảm xúc Tiền.
Trong khi đó tại (CT.9), nếu Lẽ Phải X càng gần với cảm giác Hạnh Phúc thì càng (+), nếu càng xa ngược lại thì càng (–). Ở đây theo ví dụ, cảm giác toàn là Tiền, không là Hạnh Phúc, nên Lẽ Phải X nặng về (–).
Khi con người càng say mê với tiền thì trị số Lẽ Phải càng (–), tiến đến triệt tiêu trị số Hạnh Phúc trong (CT.9); và CG sẽ tiến về trị (–). Có nghĩa, sự sống con người bước qua giai đoạn bất hạnh và đau khổ.
Đồng thời khi CG (–), thì tại (CT.10) đồng nghĩa với Lý Lẽ Nhân Tạo sẽ có tính quyết định hơn đối với Lý Lẽ Tạo Hóa, gây cho (A) thành (–). (A) (–) dẫn đến (B) càng (–), và dẫn đến B càng bị triệt tiêu mất Nhóm I; là nhóm đại diện cho tiếng nói của bản chất lương tâm thiện, hay là cái nôi sản sinh ra mọi khái niệm hạnh phúc tinh thần của mỗi con người.
Do đó, khi Nhóm I cực tiểu thì đồng nghĩa với Cái Tâm tại (CT.11) cũng bị cực tiểu dần. Khi đó, từ (CT.11) chúng ta suy ra:

        HẠNH PHÚC (thoái hóa) = TIỀN BẠC + i                    (CT.11-1)

Trong đó, i là trị số cực nhỏ của Cái Tâm còn lại trong nhận thức của con người; và Hạnh Phúc (ước mơ) bị biến thành Hạnh Phúc (thoái hóa).
Biết rằng, Cái Tâm là điểm hội tụ giữa các ý muốn phản xạ tức thời của mỗi người với cái bản chất A nguyên thủy của người đó. Hay cụ thể hơn, Cái Tâm là trung tâm lý giải về TÌNH NGƯỜI, về các khái niệm tốt đẹp trong quan hệ con người với nhau mà mỗi người có thể cảm nhận được.
Vậy nay, khi Cái Tâm bị con người hiện đại đã quá lạm tính về giấc mơ làm giàu tiền, mà vô tình đã biến nó trở thành như không có. Khi cái tâm bị làm cho mất, tức là cái tình người mất, nó đồng nghĩa với giấc mơ đi tìm một giá trị hạnh phúc trọn vẹn của đời người giàu tiền, cũng bị biến mất theo. Nó ví như, con người đã tự phủ nhận trên chính sự tồn tại hạnh phúc của đời mình vậy.
Như thế, coi như đã hoàn tất chu kỳ của một nấc thang X của một giai đoạn phát triển đời người, với kết quả bị phá sản về ước mơ được sống hạnh phúc, khi đã đạt được đến đỉnh cao của sự giàu tiền kia!
Tương tự như trên, tùy theo con người thay X vào mà cho ra những kết quả hay hay dở, tốt hay xấu, so với kết quả của nấc Tiền mà chúng ta vừa nêu (nó được xem là ví dụ mẫu để so sánh với các lựa chọn mục đích sống X khác).
Trong ví dụ trên, chúng ta lưu ý khi (A) đã (–), tức là vùng Trung Tâm Vô Thức đã (–), thì nó thúc đẩy mọi hoạt động tại B cũng (–) theo một cách tự nhiên. Tức là các sinh hoạt đời thường của con người đang bị (–) dần.
Đó là chốt điểm khó nhất để lý giải, vì sao một con người đang sống bình thường lương thiện, nhưng một ngày kia bị biến thành kẻ phạm trọng tội mà họ vẫn không hiểu tại sao “điều họ không muốn, nay lại đang xảy đến với chính họ!”
Nếu X có thể là “Tiền”, thì X cũng có thể thay đổi bất kỳ một mục đích nào khác, từ cụ thể nhất đến trừu tượng nhất – như một “triết lý” chẳng hạn, hay một khái niệm lý tưởng cao đẹp nào khác, v.v...
Nếu con người vấp phải sai lầm về nguyên nhân vật chất cụ thể, thì vấn đề còn dễ suy ra nguyên nhân. Nhưng nếu con người vấp phải sai lầm về nguyên nhân tinh thần, thì vấn đề truy tìm nguyên nhân sẽ vạn lần khó khăn và vô cùng phức tạp hơn. Bởi khi sai về lý của cái tâm quan hệ, thì con người sẽ có vạn ngả đường để lách, nên sẽ rất khó xác định nhân quả trong các mối quan hệ con người với nhau đó.
Tuy nhiên, tạo hóa sinh con người ra theo một cơ cấu đã định; do đó, khi con người phát triển đến mức tối đa, thì cũng phải nằm trong một giới hạn nào đó của quỹ đạo phát triển của tạo hóa mà thôi.
Vì thế, cách khắc phục được đề xuất trong Đơn 13, là con người nên thay X bằng công thức sau:
            X = x + HẠNH PHÚC                                (CT.15)
Trong đó, x được thay bất kỳ và Hạnh Phúc là đồng nghĩa với mọi ước muốn hạnh phúc lương thiện của con người (vừa trước mắt vừa có tính lâu dài).
Nó có nghĩa là: khi con người chọn bất kỳ mục đích phấn đấu x nào, thì cũng nên nhớ đó cũng chỉ là PHƯƠNG TIÊN để con người đạt đến mục đích cuối cùng, là “HẠNH PHÚC đời người”.
Như thế, khi con người càng đi sâu vào X thì sẽ càng không bao giờ bị lạc lối. Vì lúc này tại B, chúng ta cũng có:
        B = NHÓM 1 + (Nhóm I + Nhóm II)                         (CT.15-1)
với NHÓM II = Nhóm I + Nhóm II (Tức là có ý thức về (B) trong B, với Nhóm II là phương tiện để tạo nên Nhóm I). Ngoài ra, (CT.9) sẽ thành:
        CG = HẠNH PHÚC + ( | Lẽ Phải x | + Hạnh Phúc)                 (CT.9-2)
với |LẼ PHẢI X| = |Lẽ Phải x| + Hạnh Phúc (tức là ngoài mục đích x phải đồng thời có kèm theo ý thức mục đích “sống Hạnh Phúc là chính”).
Bằng cách chọn X như trên, con người có thể chủ động cho CG luôn (+), (A) cũng luôn (+) và B sẽ không bao giờ bị mất NHÓM I. Nếu NHÓM I không mất, thì nó sẽ ngày càng phát triển hay Cái Tâm con người cũng sẽ được không ngừng phát triển, và (CT.11) sẽ gặt hái thành công, đời người sẽ có được ý nghĩa hạnh phúc tốt đẹp.
Song vấn đề là, Lẽ Phải x và Hạnh Phúc trong (CT.15) không được mâu thuẫn nhau; vì nếu không, Lẽ Phải x sẽ làm triệt tiêu Hạnh Phúc, thì vấn đề sẽ lại quay về vô nghĩa.
Do đó, tại B sẽ xảy ra sự tranh luận về ý nghĩa của Lẽ Phải x sao cho nó luôn phù hợp với Hạnh Phúc. Sự tranh luận đó là:
        Lẽ Phải x # Hạnh Phúc                                         (CT.16)
Công thức trên có nghĩa: từ nay con người thực hiện bất cứ mục đích lớn nhỏ nào trong đời, kể cả trong các mục đích sinh hoạt đời thường, cũng nên phải đính kèm một lý giải về thế nào là ý nghĩa Hạnh Phúc của nó đối với cả đời người.
Do Hạnh Phúc nguyên thủy của mọi người đều giống nhau, nên tuy về hình thức Lẽ Phải x của mỗi người có khác nhau, nhưng về bản chất thì phải gặp nhau ở đích cuối cùng. Tức là, mọi người phải hiểu nhau, đồng cảm với nhau về một mục đích lý giải chung sống bình yên và hạnh phúc nào đó.
Như vậy, trong mô hình của Đơn 13, mọi Hành Động cùa con người đều phải có một lẽ phải “Hạnh Phúc” đính kèm, và nó phải được mọi người liên quan đồng tình về lý và tình. Trong đó, “lý” thường có ý nghĩa về mặt dùng để Kiểm Tra toàn diện, và “tình” có ý nghĩa, thường được dùng để đưa ra Kết Luận sau cùng cho một Hành Động. Nếu lý và tình có cùng kết luận giống nhau, thì lẽ phải đó sẽ có sức sống lý tưởng vậy.
6. LẼ PHẢI HẠNH PHÚC
Giống như X, x được thay bất kỳ nhưng với điều kiện thỏa thêm phương trình của (CT.16). Biết rằng, mỗi x là một tập hợp của nhiều x'; x' là các đơn vị Hành Động cụ thể của x.
Lưu ý trong (CT.1), HẠNH PHÚC là hạnh phúc ước mơ căn bản, bao gồm hạnh phúc ước mơ và hạnh phúc thực tế. Còn Hạnh Phúc mà x phải thỏa ở đây sẽ nặng về hạnh phúc thực tế, nó là một phần của hạnh phúc ước mơ căn bản. Nó cũng cần được mang ý nghĩa về lương tâm, về chân thiện mỹ, về tình người, về cái tâm, v.v...
Để sống, mỗi ngày mỗi con người phải làm rất nhiều việc, từ việc ngủ nghê, làm vệ sinh, chuẩn bị chợ búa, ăn uống, đi làm việc, chăm lo việc nhà cửa, gia đình, hàng xóm, v.v... Trong mỗi việc trên, lại được chia thành nhiều việc nhỏ lặt vặt khác, cũng đòi hỏi con người phải bỏ ra một số bận tâm không ít.
Vậy, mỗi khi con người phải để tâm hoàn thành các việc từ nhỏ đến lớn trên, là mỗi lần con người đã thay đổi bấy nhiêu lần x' để cộng dồn lại thành x, đại diện cho một khoảng thời gian phấn đấu vì một mục đích nào đó.
Để giải thích cho mỗi mục đích x' của từng công việc trên, thì có thể mỗi người giải thích không khó. Ví dụ, tôi đi chợ để mua thức ăn về nấu cho buổi cơm trưa, tôi đi làm để kiếm tiền nuôi bản thân và gia đình, tôi đi học để nên người, tôi mở rộng kinh doanh để đủ khả năng cạnh tranh và phát triển, v.v...
Nếu hỏi chung lại, tất cả những việc trên được thực hiện nhằm mục đích gì, câu trả lời chung là ĐỂ SỐNG. Nếu hỏi chung cho cả một xã hội, là mọi người hoàn thành mọi việc như thế để sống như thế nào? Đến đây câu trả lời sẽ phải rẽ sang nhiều hướng chung chung. Tuy nhiên, nhìn chung các xã hội ngày nay đang phải cùng nhau cố gắng thực hiện mục tiêu: “chiến thắng trong cạnh tranh thị trường để giành sự tích tụ về mức sống vật chất cao nhất'. Hay nếu chúng ta quy chúng thành ”Tiền", thì có nghĩa con người đang chạy đua xem ai “thu được tiền nhiều nhất”.
Đến đây, khi hỏi các xã hội đã có tiền thật nhiều là nhằm ích lợi gì, khi mà các hội chứng của sự bế tắc về khái niệm hạnh phúc, đang không ngừng gây nên những rối loạn bất ổn về mức sống tinh thần của con người trong các xã hội thừa tiền của đó?
Nếu chúng ta đem các x kết nối lại với nhau thành như một đoàn tàu hỏa mà đầu tàu là nội dung định hướng phát triển của một xã hội, thì tùy theo kết quả định hướng trên mà lần luợt các toa x sau sẽ phải bị chạy theo cùng hướng đó, khó có điều kiện cưỡng lại được.
Áp dụng (CT.16) vào ví dụ trên chúng ta có, nếu:
Lẽ Phải x = Mất định hướng tinh thần hay Hạnh Phúc khó xác định.
Điều đó có nghĩa: mọi Lẽ Phải x' trong đời sống hằng ngày của mọi con người trong ví dụ trên, đều có mầm “Hạnh Phúc khó xác định” một cách tiềm ẩn trong nội tâm vô thức của mỗi con người trong xã hội đó.
Để cụ thể và chính xác hơn, chúng ta phân x ra làm hai phần như sau: (GC: m là một tập hợp của nhiều m': tương tự hp có hp' và khp có khp', để ứng với x có x').
            x = m + hp                                         (CT.17)
với m là mục đích hay ý muốn của Hành Động và hp là mầm Hạnh Phúc có trong x (tức là ngoài mục đích m, nội tâm con người còn có mục đích hp đang được tiềm ẩn vô thức tại tâm A).
Áp dụng công thức (CT.17) vào ví dụ trên, chúng ta có:
            x = m + khp                                         (CT.17-1)
Với khp là mầm tiền ẩn không Hạnh Phúc hay khó xác định Hạnh Phúc.
Chúng ta đã biết hp hay khp có gốc hình thành tại A, nên chúng tồn tại dưới dạng vô thức; và m có gốc tại B, nên tồn tại dưới dạng ý thức. Vấn đề có nghia, khi con người phải trực tiếp thực hiện các mục đích công việc hằng ngày, thì khp' được tích tụ dần một cách vô thức, theo tỉ lệ thuận với số m' phát sinh cùng thời gian, ngày, tháng, năm, v.v...
Đến một thời gian được gọi là sự thành công trên con đường sự nghiệp, thì m # 0 và x = khp xuất hiện. Vấn đề được lý giải như sau: khi con người phải thường xuyên bị đối mặt trước những thúc ép mang tính sống còn của sự sống, hay đang bị lôi cuốn vào các mục tiêu kiếm tiền, v.v..., thì sự tác động tiềm ẩn của khp bị che khuất. Nhưng khi các cao điểm lôi cuốn tinh thần kia đã giảm về 0, thì ngay sau đó khp sẽ được thế chỗ theo nguyên tắc, giữ nguyên cường độ x của sức sống thường ngày. Tức là, con người trèo càng cao thì té càng đau, là cách lý giải dễ hiểu cho nội dung trên. Tuy nhiên, con người hiếm khi đạt hết giới hạn của m, nên hiện tượng “té đau” thường xảy ra mang tính “phân tán” nhiều hơn (Ví dụ: mang máng một nỗi buồn u uất trong suốt một quãng đời...
Nếu gọi đa số con người thời đại văn minh đều chọn X là Vật Chất, thì mọi x trong đó đều có mầm khp. Vì vậy, con người thời đại văn minh luôn cảm thấy bận rộn hối hả, để vừa là vì công việc mà cũng vừa là vì sợ khp xuất hiện như một căn bệnh làm suy yếu đời sống tinh thần con người!
Vấn đề trên dẫn đến hiện tượng: con người nô lệ công việc, chứ công việc không còn là phương tiện tích cực để giúp con người xây dựng cuộc sống hoàn thiện và hạnh phúc nữa.
Như vậy, kết quả sự sống con người cuối cùng bị lệ thuộc chính vào hai yếu tố: hp và khp của nội tâm con người. Lấy ví dụ: một con người sống trong xã hội hòa bình thì sự sống ban đầu là hp, nhưng khi tuổi càng lớn dần thì khp sẽ lớn rõ dần, sự ưu phiền càng xuất hiện nhiều hơn.
Nếu xét ví dụ ở phạm vi rộng hơn, phạm vi các ngành nghề, phạm vi các tập thể, các quốc gia, v.v... và nếu chúng ta gọi hp là (+) và khp là (–) thì mọi quốc gia, gia đình, ngành nghề, sự nghiệp, v.v... đều (+) khi khởi sự và có thể sẽ thành (–) dần khi phát triển càng cao. Trong cùng một giới, cùng một lĩnh vực hay cùng một nghề nghiệp, nơi này (+) thì sẽ có nơi khác đang (–), quốc gia này đang (+) thì sẽ có quốc gia khác đang (–), thế giới loài người đang (+) mạnh về vật chất thì đồng thời cũng đang (–) mạnh về tinh thần, v.v... Tất cả phát triển cân đối, như theo sự điều khiển của Quy Luật Quân Bình (–, +) của Tạo Hóa vậy...
Tất cả mọi xu thế đang (+) dần lên hay đang (–) dần xuống, trên tất cả các lĩnh vực vận động sinh tốn của con người nói chung, đều có khả năng tác động ảnh hưởng qua lại lẫn nhau theo nguyên tắc: các ảnh hưởng của quy mô lớn có tính quyết định đối với các quy mô nhỏ, các vận động có tính Tinh Thần càng cao càng có tính quyết định đối với các vận động có tính Vật Chất chủ quan, thiển cận, v.v...
Để rồi, tất cả cùng chịu sự chi phối chung của bản chất tiến hóa của loài người, là ngày càng (+) dần lên về mức sống toàn diện, nhưng cũng (–) dần xuống về chu kỳ tuổi thọ của Thái Dương Hệ...!
Tất cả những lực chi phối trên, cuối cùng đều tác động đến đời sống của mỗi con người cụ thể, bằng nhiều cách khác nhau, bằng nhiều hình thức khác nhau, bằng các hiện tượng trực tiếp hay gián tiếp khác nhau, tuỳ theo hoàn cảnh, môi trường hay điều kiện sống cụ thể của mỗi người v.v... Dưới tổng thể của các lực tác động như trên, cộng với sự nỗ lực tích cực chủ quan của mỗi con người, sẽ tạo nên những thành công hay thất bại tùy theo trường hợp mỗi người, trong một tỉ lệ ngẫu nhiên chung nào đó của tổng thể vận động.
Nếu sự nỗ lực chủ quan trên thành công, thì con người dễ tin rằng đó là nhờ sự tích cực rèn luyện, chủ quan nào đó của bản thân cá nhân đó, hay cũng có thể là nhờ sự trợ giúp thế nào đó của đấng vô hình, v.v... Trong khi đó, cùng một nỗ lực chủ quan như vậy, nhưng trong điều kiện khác, thì bị thất bại, và con người dễ bị oán trách nhau, trách mình, trách người, trách tất cả, v.v...
Mặt khác, cũng do lợi thế ngẫu nhiên trên mà có người tạo được cái (A) thông minh hơn người, và tất yếu phải có kẻ khác xui hơn với (A) kém cỏi hơn; thế là bên này được người đời tôn vinh, còn bên kia thì bị người đời khinh chê!
Tất cả khác gì canh bạc, mà “Trời kêu ai nấy dạ”. Mọi giá trị của chân lý, khi hiện khi ẩn, khi thật khi giả, khi thấy ăn chắc, khi không biết đường đâu mà lần, khi tưởng như rất thông minh nhưng hóa ra chẳng đáng khen một lời, khi tưởng rằng hạnh phúc đã tràn đầy nhưng sự tiềm ẩn bất hạnh lại khó tỏ bày cùng ai, v.v... (Nhờ thế đã giúp cho mấy thầy bói có được cuộc sống khá thành công chăng!?)
Tất cả đều do sự chi phối của Lẽ Phải Vật Chất mà thành phức tạp.
Cách khắc phục, phải chăng là con người phải khám phá, nghiên cứu và tìm cách chủ động mọi lực chi phối trên? Điều đó là không thể, vì tất cả chúng là một quá trình biến hóa vô hạn, theo thời gian và sự sống. Tuy nhiên, con người có thể chủ động rèn luyện khả năng tối ưu của mình, để có thể thích ứng với mọi hoàn cảnh, bằng những lý giải, Hành Động v.v... hay bằng những cố gắng hợp lý nhất.
Điều đó, tùy thuộc vào khả năng chuyển đổi từ khp sang hp trong mỗi con người. Do môi trường của Lẽ Phải Vật Chất đã tạo cho con người hình thành khp trong vô thức, vậy nay nếu đổi được môi trường sống đó sang Lẽ Phải Tinh Thần, thì tin rằng con người sẽ đổi được khp trong vô thức A của mình vậy.
Khi x = m + hp, thì Lẽ Phải x đó được gọi là Lẽ Phải Hạnh Phúc. Đó là lẽ phải chính để hình thành nên môi trường sống hạnh phúc mang tính chất của Lẽ Phải Tinh Thần T.
7. MÔI TRƯỜNG HẠNH PHÚC V
Sự sống Tinh Thần của con người chịu sự tác động hình thành bởi hai môi trường: môi trường bên ngòai có tên Môi Trường Vật Chất, và môi trường bên trong có tên Môi Trường Tinh Thần hay nôm na là Môi Trường Nội Tâm.
Đối với trẻ em từ một vài tuổi trở lại, thì môi trường V (Vật Chất) có tác động chính, vì môi trường T (Tinh Thần) chưa được nhận thức để phát triển chủ động. Trên tuổi ấy thì môi trường T được hình thành rõ dần, và cạnh tranh chi phối đời sống con người với môi trường V. Đối với tuổi càng cao, thì môi trường T dễ có tính quyết định hơn môi trường V.
Nhìn chung, tùy người mà có thể môi trường nào có tính quyết định đối với môi trường nào. Trong hai môi trường trên, thì môi trường T nằm trong tầm chủ động của con người, nhưng lại rất khó chủ động. Ngược lại, môi trường V tuy thấy xa nhưng có khi lại gần và dễ chủ động hơn.
Ví dụ, khi con người đang bị nghèo khó, nhưng tình cờ được có nhiều tiền thì rõ ràng mức sống sẽ được cải thiện ngay; vậy tức là môi trường V đã được thay đổi. Nhưng khi môi trường nội tâm đã thấy buồn, nay muốn nó vui lên, thì không phải dễ gì lúc nào cũng đạt được như ý.
Trong môi trường Lẽ Phải V thường làm nảy sinh trong mỗi con người hiện tượng khp vô thức, nên con người dễ có biểu hiện nội tâm không vui, độc đoán, nóng tính, chủ quan, hẹp hòi, bất thiện, chán nản, đau khổ, v.v... Các hiện tượng trên thuộc hậu quả gây tiềm ẩn bởi môi trường Lẽ Phải V; nên khi dùng V tác động vào, thì đời sống con người cũng sẽ có thể được cải thiện chừng mực.
Trường hợp khi V tác động đến một giới hạn nào đó, thì hết hiệu quả; điều đó chứng tỏ Lẽ Phải V không có đủ điều kiện để giải quyết tận gốc các vấn đề sự sống của con người. Vậy, lời giải phải là xây dựng môi trường Lẽ Phải T như là một điều kiện để các vấn đề trên được giải quyết triệt để hơn và thành công hơn.
Xây dựng Môi trường Lẽ Phải T, tức là xây dựng môi trường V trên nền của Lẽ Phải T làm chuẩn mực. Hay đó là môi trường Hạnh Phúc V, vì nó sẽ giúp con người thay đổi được từ khp sang hp một cách vô thức. Do đó, Lẽ Phải T còn được gọi là Lẽ Phải Hạnh Phúc.
Tuy nhiên, do chưa có Lẽ Phải Hạnh Phúc, thì ngược lại cũng không thể có môi trường V Hạnh Phúc được. Nếu không có môi trường Hạnh Phúc V, thì cũng không thể có Lẽ Phải Hạnh Phúc được. Sự lẩn quẩn này sẽ được thoát ra dựa trên các thành công của nền Khoa Học Vật Chất, vì nó có khả năng đem đến cho con người một sự hưởng thụ hạnh phúc về Vật Chất rất cụ thể.
Với điều kiện đời sống vật chất tiện nghi và hiện đại, nó sẽ gợi ý cho con người muốn duy trì lâu dài sự hưởng thụ hạnh phúc đó. Và hơn thế nữa, sự hưởng thụ đó phải hiệu quả trên cả hai mặt, đời sống vật chất và tinh thần, trong ý muốn phát triển của con người.
Đó là những nguyên nhân cụ thể và trực tiếp đã gợi ý cho con người hình thành ra các Lẽ Phải Hạnh Phúc của cuộc sống. Lịch sử đã chứng minh, sự gợi ý trên như là một biểu hiện của sự may mắn cho một giai đoạn phát triển mới, tốt đẹp hơn đối với đời sống của loài người văn minh. Tuy nhiên, trước mắt, nó sẽ là nguyên nhân gây ra những bi hài kịch rất khó chịu cho con người và xã hội!
Khi giấc mơ hạnh phúc gợi ý cho con người LÒNG HAM MUỐN, thì đồng thời do sự lập đi lập lại thường xuyên của sự ham muốn đó, mà đã hình thành nên tại (A) một lực hút mạnh mẽ: nó thúc đẩy con người lao đến các mục tiêu đã được chọn trong cuộc sống.
Sự mong muốn có hạnh phúc lúc này, đã trở thành điểm tựa sống còn của sự phát triển tâm lý của con người. Nên một mặt, con người cố gắng duy trì và bảo vệ những thành quả hạnh phúc đã đạt được, mặt khác cố gắng để làm giàu thêm chúng: hay ai chưa có hạnh phúc thì có thể tìm mọi cách để có, kể cả tranh giành hạnh phúc lẫn nhau một cách hợp lý hay không hợp lý.
Như đã được giới thiệu ở phần đầu, khi con người chọn sản phẩm vật chất làm điều kiện của đối tượng hình thành hạnh phúc, trong khi số lượng sản phẩm vật chất sản xuất ra trong một xã hội là hữu hạn; thì tất yếu sẽ xảy ra sự tranh giành quyết liệt giữa con người với nhau, bởi một bên là “Sự Ham Muốn Vô Hạn” của con người và bên kia là “Sự Đáp Ứng Hữu Hạn” của số lượng sản phẩm vật chất mà xã hội có thể có được.
Có người trách do thói quen tư hữu mà sinh ra tất cả bi kịch!. Nhưng sự ham muốn nào cũng phát triển từ nền của các thói quen ham muốn cho riêng tư trước rồi mới tiến lên vì cái chung. Và con người sinh ra mà không có ham muốn thì khác gì khả năng sinh tồn bẩm sinh của người đó đã không còn nữa vậy!
Bên cạnh đời sống vật chất, con người còn có đời sống tinh thần. Nay nếu con người đẩy mạnh sự ham muốn đó tiến thêm một bước, thì sẽ chạm đến kho tàng vô giá của giá trị tinh thần. Nó sẽ biến mọi ham muốn của con người trở nên... hụt hơi, hay được điều tiết lại cân đối nhờ lượng sản phẩm hàng hóa nhiều vô hạn của nó.
Từ những vốn nghiên cứu từ đầu tác phẩm về các cơ chế vận động Tinh Thần của con người, chúng ta có thể nói, chúng ta đang hình thành một công nghệ sản xuất ra loại sản phẩm nhiều vô hạn đó; đó là các sản phẩm: “LẼ PHẢI HẠNH PHÚC”!
Lẽ Phải Hạnh Phúc được sản sinh đầu tiên từ nền của các thói quen nhận thức về mức sống hạnh phúc vật chất của xã hội. Trách nhiệm của các Lẽ Phải Hạnh Phúc không có gì khác hơn, là lý giải những giá trị hạnh phúc đó sao cho nó có lợi nhất cho sự sống của mọi người nói chung, hay cho mỗi con người cụ thể nói riêng, một cách công bằng và hợp lý nhất.
Hạnh phúc nào cũng phải dùng phương tiện thông tin nhất định để hình thành cảm xúc. Trong xã hội hiện đại, “thông tin ngôn ngữ” đã trở thành phương tiện hình với bóng trong mọi khái niệm hạnh phúc của con người.
Biết rằng sự vận động nội tâm của con người là sự vận động trộn lẫn giữa các thông tin ngôn ngữ và các cảm xúc với nhau, thông qua các hiện tượng diễn biến xuất hiện tại B để nhận diện.
Biết rằng, đồng thời tại B cũng có sự tồn tại và tham gia của các vận động Tư Duy chủ quan của con người. Vậy nên, tại B từ bản chất, con người có thể tác động bằng ngôn ngữ để điều khiển môi trường nội tâm, sao cho có thể hình thành ra các nội dung cảm xúc tích cực, mang lại lợi ích cao nhất cho sự sống của con người hay cho xã hội nói chung.
Tuy nhiên, do Tư Duy chủ quan của con người được hình thành trên nền của A vô thức, nên nếu khi xét vấn đề từ góc độ của Lẽ Phải V, thì con người sẽ tất yếu không thể làm chủ được sự tác động của A; tức là, cũng sẽ không làm chủ được khả năng hình thành các cảm xúc hạnh phúc tại B của mỗi con người.
Vì lẽ đó mà từ lâu, không phải con người không nhận thức được sự vô lý trong các xung đột mâu thuẫn đối kháng vì các tranh giành quyền lợi với nhau; nhưng con người vẫn không sao cản trở được chúng xảy ra. Đó là do từ nguyên nhân của sự thiếu ý thức về A, để dẫn đến sự thất bại tại B trong ý muốn tích cực chủ động khắc phục các mâu thuẫn trên. Nếu ngày nay, chiến tranh đã bị loài người lên án và đang tìm cách làm cho chúng biến mất dần, thì cơn bão hủy hoại đời sống tinh thần con người lại nổi lên như một kiểu tàn phá mới, tinh vi hơn, “nhức nhối” hơn, vô hình hơn và cũng rất nguy hiểm đối với đời sống con người.
Tất cả nguyên nhân trên là do A đã cản trở con người nhìn ra lối thoát cho vấn đề nan giải trên. A ngăn cản con người không bằng các “lệnh cấm công khai”, mà bằng “sự bế tắc trong khả năng lý giải của con người” về các hiện tượng sự sống của con người và xã hội. Hậu quả là, vì thiếu lý nên đã buộc con người phải cần đến quyền áp đặt bằng bạo lực trong quan hệ con người với nhau, dựa trên khả năng quyền thế, nhận thức, triết lý sống sai lầm nào đó, v.v...; mà cuối cùng nhìn chung lại, nhiều người đã xem chúng như một biện pháp kiến hiệu nhất để giải quyết mọi bất hòa trong quá trình đấu tranh sinh tồn giữa loài người với nhau!
Vì thế, nếu vế bên này con người công nhận phải dùng quyền áp đặt bằng bạo lực để làm phương tiện đạt kết quả, thì vế bên kia tất yếu sẽ xuất hiện những con người “cùng khổ”, mà họ như luôn muốn chống lại những người trong vế trên.
Cũng có khi, con người nhận thức ra sự mâu thuẫn giữa hai vế trên, nhưng không có cách nào làm khác được ngoài cách... biện minh cho các hành động của mình như thế là phải lẽ.... (?!).
Trong thực tế, sự sống con người không hoàn toàn diễn biến theo lý tại B của con người đưa ra, mà còn bị lý tại A điều khiển. Do thiếu chủ động A và sợ lý sai, nên con người càng muốn thành công thì càng phải dùng đến các bạo lực và áp đặt nhiều hơn. - Thường trong quan hệ, tính bạo lực được giấu đi, nhưng thực tế bên trong là đã chuẩn bị sẵn sự đe dọa áp đặt bằng bạo lực của một bên nhất định!
Do đó, trong nội tâm cách sống theo V của con người (con người sống theo Lẽ Phải V) sẽ dễ xảy ra các hiện tượng “bồn chồn, bất an”; điều đó ắt sẽ dẫn đến bất lợi cho sự hình thành các Lẽ Phải Hạnh Phúc T, trong một môi trường nội tâm với nhiều “sóng gió” như vậy.
Để vượt qua các trở ngại trên, sự chuyển đổi VT trước tiên phải được áp dụng theo phương thức của Phức 12, mà chúng ta sẽ được giới thiệu đại cương ở phần sau. Từ Phức 12, con người sẽ xây dựng được một môi trường T Hạnh Phúc trong nội tâm, để từ đó có thể suy ra được các Lẽ Phải Hạnh Phúc T.
Có Lẽ Phải Hạnh Phúc, con người có thể đem ứng dụng ngược trở lại cho các nhận thức V khác bằng con đường Đơn 13 phổ thông, đơn giản và dễ hiểu. Do số đông con người chịu tác động bởi nhận thức V để sống là chính, nên nếu làm thay đổi được nhận thức V thì đồng nghĩa, con người cũng sẽ có thể hình thành được Lẽ Phải Hạnh Phúc T trong nhận thức của mỗi người, hay tức là con người đã tạo dựng được mầm hp trong A hay (A), điều kiện để xây dựng sự sống phát triển toàn diện cho mỗi đời người.
Để làm thay đổi các nhận thức V bằng con đường Đơn 13, con người phải xây dựng thành công môi trường quan hệ bên ngoài xã hội theo hướng T, thì sau đó mới có thể làm thay đổi hiệu quả các V trong ý thức quan hệ của mỗi người.
Chúng ta gọi môi trường quan hệ ngoài xã hội theo V được thay đổi sang T, là MÔI TRƯỜNG HẠNH PHÚC V trên nền của Lẽ Phải Hạnh Phúc (T) làm căn bản.
Có môi trường quan hệ xã hội bằng Lẽ Phải Hạnh Phúc chi phối, thì môi trường sống bên ngoài trạm 1 của mỗi cá nhân hay môi trường V của mỗi cá nhân đó, cũng sẽ được đổi thành Môi Trường Hạnh Phúc V. Như thế, có nghĩa là B đã được thay đổi, dẫn đến A vô thức thay đổi phù hợp với nguyện vọng sống tích cực và chủ động của mỗi con người trong môi trường đó.
8. ĐẠO ĐỨC TRANH LUẬN
Nếu gọi Môi Trường V là môi trường của Vật Chất, thì Môi Trường T là môi trường của Tinh Thần. Do định nghĩa, Vật Chất là tất cả những hiện tượng tồn tại bên ngoài mỗi Tinh Thần, tính từ 1. -Biết rằng 1 là điểm tiếp giáp duy nhất và trực tiếp của mỗi B Tinh Thần, đối với môi trường Vật Chất hay Môi Trường V bên ngoài, thông qua khả năng ý thức của con người.
Trạm 1 tiếp xúc với Môi Trường V qua nhiều dạng như, hình ảnh, cảm xúc, hành động, tình cảm, ngôn ngữ, v.v...; trong đó, vai trò của ngôn ngữ có tính quyết định bao trùm tất cả, trong xã hội văn minh hiện đại.
Để Môi Trường V trở thành Môi Trường Hạnh Phúc V, thì vấn đề cần làm là quy mọi hiện tượng vận động của Môi Trường V thành dưới dạng “ngôn ngữ” để thuận tiện cho nghiên cứu và lý giải. -GC: ngôn ngữ trước hết là từ ngữ, lý lẽ, v.v...
Như chúng ta đã biết, trong môi trường V con người có hai hình thức quan hệ: quan hệ giữa con người với con người về đạo đức, tâm lý, tình cảm, v.v... và quan hệ giữa con người với các đối tượng vật chất khác. Trong quan hệ đầu, chúng ta gọi chung là “quan hệ Đạo Đức” hay Đạo Đức, và trong quan hệ sau chúng ta gọi là “quan hệ Vật Dụng”.
Chúng ta có thể định nghĩa: Quan hệ Vật Dụng là lấy “Khoa Học Kỹ Thuật” làm nền tảng phát triển, và trong quan hệ Đạo Đức lấy “Lẽ Phải Hạnh Phúc” làm nền tảng phát triển. Vậy, đối tượng trọng tâm cần nghiên cứu trong Môi Trường V, đối với Khoa Học Tinh Thần, phải là môi trường quan hệ Đạo Đức.
Nếu gọi Đạo Đức là do Lẽ Phải Hạnh Phúc xây dựng nên, là “Đạo Đức Hạnh Phúc” hay là “Đạo Đức Tranh Luận”, “Đạo Đức Hai Chiều”; vậy thì các Đạo Đức khác sẽ là “Đạo Đức Đau Khổ”, “Đạo Đức Áp Đặt” hay “Đạo Đức Một Chiều” vậy.
Đạo Đức Tranh Luận hay còn gọi là Đạo Đức Tinh Thần hay “ĐĐT”, và Đạo Đức Áp Đặt là Đạo Đức Vật Chất hay “ĐĐV”.
Trong đời sống xã hội, người mạnh hơn thường có khả năng áp đặt đối với người yếu hơn, vì vậy ĐĐV rất thích hợp với người mạnh, và ĐĐT thì rất thích hợp với người yếu. Nhưng đứng trước sức mạnh của tạo hóa thì mọi con người đều yếu hơn tạo hóa, nên ĐĐT về bản chất đều thích hợp cho mọi con người, còn ĐĐV chỉ thích hợp cho thiểu số người.
ĐĐT có mục đích đem lại hạnh phúc toàn diện cho mọi người; trong khi ĐĐV chỉ có khả năng đem lại hạnh phúc cho thiểu số người, nhưng cũng chỉ trong giới hạn của hạnh phúc vật chất là chính.
ĐĐV chú trọng tranh luận bảo vệ và duy trì “sức mạnh hình thức” là chính. ĐĐT chú trọng tranh luận nhằm bảo vệ và xây dựng “cái tâm” của con người là chính. Một bên cần có “sức mạnh bạo lực” cho điều kiện áp đặt đối phương đạt hiệu quả, bên kia cần con người có “sức mạnh nhận thức” cho điều kiện sống tự giác và bình đẳng giữa mọi người với nhau là chính.
ĐĐV chú trọng chiếm lĩnh Môi Trường V làm gốc, ĐĐT chú trọng chiếm lĩnh Môi Trường T làm gốc. ĐĐV chú trọng xây dựng một biểu tượng giá trị nhân tạo bất khả xâm phạm, để làm điểm tựa cho sức mạnh áp đặt; ĐĐV chú trọng khuyến khích mỗi người tự tôn cái tâm của chính mình để làm điểm tựa cho sự sống độc lập, hòa bình và hạnh phúc với mọi người, là trên hết.
ĐĐV chú trọng xây dựng những giá trị lý tưởng vượt ngoài sức tưởng tượng của con người về không thời gian, để làm động lực kích thích sự phấn đấu vượt khó của con người. ĐĐT chú trọng xây dựng khả năng phát triển các nhận thức hạnh phúc thực tế của con người, để làm động lực phát triển trực tiếp và ổn định niềm tin hạnh phúc lâu dài về sau cho con người.
ĐĐV chú trọng xây dựng các ranh giới ngăn cấm về nhận thức, để đảm bảo tính thuần hóa thống nhất trong khuynh hướng phát triển của cộng đồng. ĐĐT chú trọng mở rộng không giới hạn nhận thức của con người một cách có hệ thống, phù hợp với khả năng phát triển tự điều tiết của mỗi con người, để tạo thành sự phát triển thống nhất, cân đối và phi bạo lực trong mỗi cộng đồng.
ĐĐV không thể đảm bảo xây dựng một đời sống hạnh phúc toàn diện và cơ bản cho mọi người, trong mọi hoàn cảnh. ĐĐT có đủ điều kiện minh chứng sự vô lý trên không thể tồn tại trong môi trường ĐĐT.
ĐĐV chú trọng đề cao vai trò của các đối tượng ưu tú, để ưu tiên đối xử. ĐĐT chú trọng phân biệt các đối tượng ĐĐV hay ĐĐT, để hình thành điều kiện phát triển công bằng, tự giác và phi bạo lực.
Qua một số so sánh trên, chúng ta có thể thấy được sự khác biệt cơ bản giữa ĐĐV VÀ ĐĐT. Vậy thế nào là ĐĐT, để từ đó có thể tạo ra các hp vô thức trong đời sống con người?
Trước hết đối với con người, vấn đề cơ bản đầu tiên được đặt ra, là bằng cách nào đảm bảo các điều kiện đời sống kinh tế cơ bản cho con người, thì khi đó mọi giá trị của khái niệm lý lẽ mới hữu dụng.
Xã hội loài người ngày nay dù ở đâu, vấn đề trên luôn là vấn đề cơ bản của mỗi xã hội. Như chúng ta đã biết, trong xã hội nào cũng có sự phân cực giữa một bên là sự túng thiếu và bên kia là sự dư thừa vô kể. Do đó, cách giải đơn giản nhất và cũng trí tuệ nhất, là chia phần thừa sang phần thiếu. Nhưng cách cơ bản hơn vẫn là: mọi người đều có công ăn việc làm để đủ khả năng tự nuôi sống mình; và hơn thế nữa, là có được cuộc sống đàng hoàng và hạnh phúc lâu dài.
“Nhàn cư vi bất thiện”; nhàn là thất nghiệp, thất nghiệp sinh thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu ở v.v..., nên sinh tội phạm là bất thiện. Tội phạm sinh bất ổn cho sự sống con người và môi trường xã hội. Vì sợ mất sự sống, nên ai cũng cố gắng cạnh tranh quyền lợi, nghề nghiệp, v.v..., để rồi lại nảy sinh thất nghiệp, tội phạm, v.v...
Nghề nghiệp nào cũng muốn tạo ra những sản phẩm tinh xảo để vượt trội đối phương. Nên dù có bao nhiêu nghề nghiệp, có bao nhiêu chỗ làm đi nữa, bao giờ cuối cùng cũng phải có số người dôi ra vì không đủ sức cạnh tranh trong môi trường tranh đua ngày càng khắc nghiệt ấy. Và cuối cùng, xã hội nào cũng có người thất nghiệp như một quy luật hiển nhiên và tất yếu của thời đại văn minh và hiện đại.
“Thất nghiệp” là sự biểu hiện đầu tiên của con người về nguyên nhân gây ra sự bất ổn trong sự sống. – Vì sợ sự sống bị bất ổn, mà con người đã làm cho sự sống càng khó ổn định hơn bằng một môi trường cạnh tranh sống còn hơn, v.v...
Muốn chấm dứt sự đi vào ngõ cụt trên, một là con người phải chứng minh thành công, điều kiện để có thể ổn định sự sống cho mọi con người trong xã hội. Hai là làm sao đảm bảo đủ việc làm cho nhu cầu sinh tồn của mọi con người đang tồn tại và đang có nhu cầu sống và phát triển trong một xã hội.
Trong vấn đề đầu, phải chăng lời giải lý tưởng nhất là tùy thuộc vào sự phát triển tinh thần của những người đang “có” về mức sống vật chất, thì đời sống vật chất cơ bản của mọi người còn đang thiếu trong xã hội, mới có hy vọng được giải quyết triệt để.
Nếu phương tiện mà dư thừa, cồng kềnh, thì có khi không giúp mà sẽ thành cản trở con người đạt đến thành quả “SỐNG” một cách đúng nghĩa. Vì vậy có tiền là cần thiết; nhưng có nhiều tiền đến mức để người khác phải lâm vào hoàn cảnh bế tắc sự sống, thì điều đó rõ ràng nói lên trách nhiệm trong quan hệ con người với nhau nói chung, chưa đạt đến chuẩn mực lý tưởng vậy.
Vì vậy, trong môi trường ĐĐT, sự chia xẻ hợp lý mọi khả năng với nhau là một nguyên tắc tự giác tự nhiên của “đạo sống làm người ở đời”. Nếu thực tế được như vậy, thì vấn đề trên còn khó gì mà không thực hiện được. - Ngày nay, mức sống vật chất của xã hội thời đại luôn có gấp nhiều lần hơn điều kiện mức sống cơ bản cần được đáp ứng cho tất cả mọi người, nên sự suy luận kia về nguyên tắc sẽ luôn đúng.
Khi môi trường sống có khả năng đảm bảo mức sống cơ bản cho mọi người, thì vấn đề lý giải đảm bảo việc làm ổn định cho tất cả mọi người của vấn đề hai, mới có cơ sở được thực hiện thành công.
Con người cần có việc làm để tự nuôi sống mình, không phải ngửa tay xin của ai, chịu ơn giúp đỡ của ai, thì đó mới là lối thoát tốt nhất và cơ bản nhất cho vấn đề.
Sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật ngày nay đã giúp con người ứng dụng dần các quy trình sản xuất tự động hóa ngày càng phổ biến, để thay cho các quy trình sản xuất thủ công lạc hậu. Do đó, ngày nay, nhân công đang có khuynh hướng ngày càng trở nên dư thừa, trong nền sản xuất công nghiệp hiện đại.
Sự tiến bộ trên đã góp phần làm tăng thêm đội ngũ thất nghiệp, vốn đã đông đảo trong xã hội hiện đại. Mặt khác, ngày nay khi mức sống của con người đang ngày càng được nâng cao, thì càng có dư nhiều thời gian rảnh rỗi để... không biết dùng vào mục đích gì, sao cho có thể làm tăng chất lượng hay giá trị sinh tồn của đời người lên một cách ý nghĩa nhất.
Trong môi trường ĐĐT có xuất hiện một nghề mới được mang tên, NGHỀ SỐNG. Người hành Nghề Sống sẽ tạo ra được sản phẩm “CHẤT LƯỢNG SỐNG TÍCH CỰC” cho chính mình và cho mọi người khác. Có nghĩa là, nếu con người chưa được tiếp xúc với Nghề Sống, thì sự sống con người sẽ rất khó đạt đến một ý nghĩa sống hạnh phúc trọn vẹn vậy.
Hay là, Nghề Sống là một nghề rất thích hợp cho mọi đối tượng. Vì mọi con người sinh ra đều muốn được sống, và hơn thế nữa, trong điều kiện xã hội văn minh hiện đại, con người còn muốn được sống một cuộc đời hạnh phúc trọn vẹn, lý tưởng và ý nghĩa nhất.
Người thất nghiệp hành Nghề Sống, sẽ có nhiệm vụ trở thành người lương thiện, mạnh khỏe, hạnh phúc để góp phần chăm lo xây dựng nên một môi trường sống chung, được bình yên, trật tự, an ninh, hạnh phúc và phát triển toàn diện. Công lao đó cũng đáng được xã hội trả công lắm chăng?
Nếu gọi Nghề Sống là nghề Tinh Thần hay nghề T, thì các nghề khác là Nghề Vật Chất hay nghề V vậy.
Nếu nghề T có công đem lại sự bình yên, phát triển và hạnh phúc về tinh thần cho nghề V; thì ngược lại, nghề V cũng phải trả công lại bằng lượng giá trị vật chất tương ứng (hợp lý) mà mình đang có.
Hay nghề V có công đem lại số lượng của cải vật chất cho sự sống hạnh phúc về vật chất cho nghề T, thì nghề T phải trả công lại cho nghề V bằng số lượng Lẽ Phải Hạnh Phúc T cho sự sống hạnh phúc về Tinh Thần của nghề V.
Sự trả công cho nhau một cách bình đẳng như trên, có được thực hiện thành công hay không là tùy vào con người nhân thức ra sao về thế nào là Nghề T ? Chúng ta sẽ tìm lời giải cho vấn đề này trong phần IV tiếp sau.
9. ĐƯỜNG PHỨC 12
Trung tâm B của mỗi người bị chi phối bởi hai nguồn, nguồn từ Trạm 1 vào và nguồn từ Trung Tâm A ra.
Con đường chuyển đổi VT thông qua Đơn 13 là con đường giữa B và 1; còn đường chuyển đổi VT thông qua Phức 12 là con đường giữa B và A. Thông thường, sự sống con người dễ bị thay đổi bởi ngoại cảnh, nên con đường Đơn 13 có tính thông dụng hơn.
Có thể ví, đường Đơn 13 là sự rèn luyện nâng cao mức sống nội tâm con người một cách gián tiếp. Đường Phức 12 là sự rèn luyện nội tâm một cách trực tiếp, tích cực và chủ động hơn. Tuy nhiên, cách sau đòi hỏi nhiều công sức hơn, nên nó sẽ chỉ thích hợp với số người có đủ điều kiện hơn.
Vấn đề tương tự như, một bên học nặng về lý thuyết trong lớp nên dễ sinh buồn chán, bên kia học trực tiếp qua hành động hay các việc làm thực tế và cụ thể, nên rất sinh động và dễ được tiếp thu hơn. Học các lý thuyết về vật chất trong lớp đã khó, học lý thuyết về rèn luyện tâm lý để xây dựng cái tâm con người, sẽ càng đòi hỏi nhiều khổ công hơn.
Do đó, trong nội dung tác phẩm này không chú trọng giới thiệu chi tiết, mà chỉ giới thiệu đại cương về Phức 12 để vừa đủ chúng ta có khái niệm vấn đề.
Chúng ta biết rằng, khp và hp đều tồn tại trong A một cách vô thức; trong đó, khp là do môi trường xã hội gây ra thông qua những tác động tổng hợp, mà trong đó “ngôn ngữ” thường đóng vai trò quyết định. Như vậy, phương pháp chuyển khp hiệu quả nhất, phải chăng chỉ bằng con đường “ngôn ngữ”, vì nó nằm trong khả năng chủ động chủ quan của con người.
Chúng ta biết rằng, mối quan hệ giữa B và A chỉ là sự biến đổi từ nội dung “ngôn ngữ” thành “cảm xúc” để vào A dưới hai dạng, khp hoặc hp, ngoài ra không còn dạng nào khác. Và tất cả sự biến đổi thông tin đó đều được thực hiện bằng bản năng bẩm sinh vô thức của mỗi người.
Vì vậy, mọi Hành Động, suy nghĩ chủ quan của mỗi người đều được ghi lại một cách trung thực vào A của người đó. Trong sự sống, con người có thể che giấu sự tốt hay xấu, sự thiện hay ác của mình đối với mọi người, nhưng với Tâm A thì không được. Con người có thể lầm lẫn, không biết do vô tình hay cố ý, đã gây nên sai lầm trong nhận thức hay trong Hành Động, nhưng với Tâm A sự sai đúng thế nào là theo cách của riêng nó, cũng không bao giờ lầm.
Do đó, vấn đề phân biệt tốt hay xấu, thiện hay ác, hp hay khp là không phải chỉ tùy thuộc vào Tâm B của con người quyết định là đủ, mà vấn đề còn khó khăn phức tạp hơn nhiều; nó còn tùy vào sự khám phá, giải mã các chuyển đổi thông tin giữa A và B hay B và A (gọi tắt là A/B và B/A) đã diễn ra như thế nào.
Sự giải mã đó sẽ là yếu tố có tính quyết định sự thành hay bại, trong mục đích chuyển đổi VT bằng con đường Phức 12, để xây dựng các hp thay cho các khp trong môi trường vô thức A của con người.
Con đường giải mã đó được bắt đầu từ sự kiểm soát các thông tin đang xảy ra tại B, đã được giới thiệu chung trong (CT.14). Trong đó, đối tượng có thể kiểm soát đầu tiên là Nhóm II, thuộc mã B/A.
Nhóm II chính là các vận động nhận thức chủ quan hằng ngày của mỗi người, với môi trường sống xung quanh ngoài xã hội. Chúng ta kiểm soát môi trường đó bằng cách ghi nhận một cách có hệ thống, mọi hiện tượng NHÂN và QUẢ, để đúc kết thành quy luật về mọi diễn biến của các vận động, trong thế giới của các quan hệ giữa con người với nhau.
Tuy nhiên, để đúc kết mọi hiện tượng xảy ra lộn xộn ngoài xã hội thành các chuyển động mạch lạc, là một việc làm phải tốn nhiều công sức để có thể đạt đến thành công. Vì vậy, từ lâu con người đã mất không ít công sức vì nó.
Muốn đúc kết các hiện tượng trên đạt kết quả, phải chăng con người cần có đủ dũng khí, không phải để sát phạt giữa con người với nhau, mà là con người phải dám đủ trung thực với chính mình hay với lương tâm khách quan và chân thiện của mình. Đó là một việc làm tưởng rất dễ, nhưng có khi lại không dễ chút nào.
Bởi, muốn đúc kết giữa nhân và quả đạt chất lượng cao nhất, thì không có cách nào hay hơn là phải theo dõi thông tin từ nhiều hướng, kể cả từ hướng của những đối tượng mà mình có ấn tượng đối nghịch nhất.
Thông thường, con người hay có thành kiến về một vật thể xấu hay tốt nào đó, để cuối cùng tạo thành một thói quen tình cảm nhất định về nó. Nếu các thành kiến đó xảy ra đối với một con người hay một số đông người, thì những thói quen tình cảm đó càng khó thay đổi hơn.
Nhưng nếu con người không vượt qua được các trở ngại đó, thì mọi nghiên cứu nhân quả, thực chất chỉ có lợi cho cái (A) thành kiến của con người thêm nặng, còn cái lợi khám phá sự giải mã B/A sẽ vẫn phải tiếp tục bị bế tắc trong phạm trù chủ quan vậy.
Trong thế giới của tạo hóa, không thể có quả mà không có nhân. Vậy, chỉ có nhân sai thì dẫn đến nhận thức sai, nếu tìm được nhân đúng thì sẽ suy ra được quả đúng; và tất yếu sẽ tạo ra được những nhận thức đúng đắn.
Nếu có được nhận thức đúng, thì ngay tức thời, B sẽ chuyển thông tin B/A đến A để chờ xử lý. Nó xử lý bằng cách: từ những nhận thức đúng. A/B sẽ cho ra những suy diễn, dự đoán tình hình phát triển tiếp theo phù hợp với các diễn biến ngoài thực tế. Mỗi lần so sánh có sự trùng hợp kết quả dự đoán trên, thì giá trị của mỗi hp được hình thành rõ nét dần.
Giống như cầu thủ đá bóng, luôn được A dự đoán sẽ ghi được bàn và khi có được kết quả ghi bàn thật sự, thì đó cũng là lúc mà mã B/A đã tạo được một hp trong vô thức của người cầu thủ đá bóng đó.
Kết quả được kiểm tra ở đây vô cùng khắt khe. Nó phải được kiểm tra về mọi phương diện không gian, địa lý dân cư, vũ trụ v.v... hay cả về thời gian, lịch sử con người, xã hội, v.v...; bởi tất cả chỉ là một hệ vận động thống nhất.
Mức độ kiểm tra càng rộng bao nhiêu, thì tính chính xác càng được củng cố thuận lợi bấy nhiêu. Từ một kết luận đúng sẽ là thuận lợi để con người suy ra được những kết luận chính xác khác. Vì vậy, yêu cầu đòi hỏi tính chính xác ban đầu rất cao, “sai một ly đi một dặm” là một lời cảnh báo không thừa cho vấn đề.
Trong các kiểm tra đó, không tránh khỏi phải trải qua những cánh cửa của nhiều trường phái triết lý khác nhau, nhiều hệ mô hình đạo đức, luân lý khác nhau, v.v... để xác định tính chân lý bền vững và thống nhất của một nhận thức.
Bằng cách nào vượt qua được các sự kiểm tra đó? Tạm thời chúng ta không giới thiệu chi tiết; song, về đại thể là: nếu có lý nào đúng, đúng bao nhiêu, đúng khoảng nào, đúng cho giai đoạn lịch sử nào, đúng cho ai, v.v....; thì đều đã được con người ngoài xã hội dùng đến. Do đó, vấn đề là lọc ra, nhân nào thuộc kết quả nào, để cuối cùng suy ra được các kết luận tổng hợp đúng nhất.
Một con người lớn lên được có bao nhiêu nhận thức, thì phải có bấy nhiêu nhân và quả, thì cần được chỉnh bấy nhiêu kết luận đúng nhất; để cuối cùng cộng tất cả chúng lại thành một hệ quan điểm luận đúng nhất về “thế nào là sự sống làm người trên thế gian này!”.
Tùy theo kết quả tạo thành hệ quan điểm trên đúng nhiều hay ít ấy, mà A sẽ sao y lại bấy nhiêu, và cho lại kết quả suy đoán với chất lượng tương ứng bấy nhiêu. Có bấy nhiêu lần suy đoán đúng, thì sẽ có bấy nhiêu khả năng giải mãi B/A được tạo thành.
Sau cùng, mọi hiện tượng xảy ra tại 1 hoặc ngoài Tinh Thần, đều đã được giải mã. Tức là B/A đã thông, thì vấn đề sẽ chuyển sang giải mã cho số thông tin thuộc Nhóm I, tức mã A/B.
Trong quá trình trải qua thời gian sống của một con người, tại B đã xảy ra bao nhiêu hiện tượng, thì A ghi lại bấy nhiêu dưới dạng cảm xúc đối với từng khái niệm sống, mà mỗi con người có thể cảm nhận được thông qua các giác quan và sau đó được kiểm chứng lại bằng ngôn ngữ.
Khi các nhà Tu Thiền có điều kiện yên tĩnh để tập trung tinh thần hướng về nội tâm, thì đó là một hình thức đối mặt với A. Vấn đề ở đâ cũng gần tương tự như vậy. Nó là một dạng tự vấn lương tâm, trong đó vừa có phân tích nhân, quả và cũng vừa là sự củng cố lại A theo một hướng tối ưu nhất. Như thế, cũng có nghĩa, một quy trình giải mã A/B đang được xác định.
Từ tuổi nhỏ đến khi có một nhận thức trưởng thành, mỗi con người không tránh khỏi đã được hình thành sẵn một số thói quen nhận thức nhất định; nó có trước khi con người có khả năng ý thức về quyền chủ động của mỗi người, trong mục đích làm chủ sự định hướng tương lai phát triển nhận thức của mình.
Chính số lượng nhận thức ban đầu vô ý thức đó, là một ẩn số đặc thù cho mỗi nhân cách con người. Thông qua ẩn số đặc thù đó, mà sự khác nhau về nhân cách của người này với người kia sẽ không sao có sự trùng lắp hai lần.
Vì vậy, nhu cầu khám phá A là một điều kiện không thể thiếu, nếu con người muốn làm chủ bản chất giá trị của tổng vốn nhận thức mà mỗi người đang có trong sự sống, là gì.
Thông thường, do điều kiện sống không cho phép, nên không phải ai cũng có đủ điều kiện để khám phá hết cái tâm A của mình. Vì thế, con người sẽ khó làm chủ hết các ý nghĩa và giá trị nhận thức của chính mình, nên dễ sinh ra sai lầm chủ quan trong quan hệ con người với nhau, cũng như trong trách nhiệm công việc của mình. Nếu sự sai lầm đó được cộng thêm quyền thế, thì hậu quả sẽ càng tinh vi. Bởi con người cũng có thể cho rằng: những kết quả sai lầm là do mọi người khác gây ra, mà không nghĩ rằng sự sai lầm trong nhận thức của chính mình, cũng vẫn có thể là một nguyên nhân cơ bản, nguy hiểm và khó được thú nhận để sửa chữa nhất.
Vì vậy, thông thường đa số mọi người dễ phê bình, sửa sai người khác, nhưng đến phần sai lầm của chính mình thì lại muốn bất khả xâm phạm đối với mọi người?
Như vậy, giải được A/B là một thuận lợi cơ bản để con người có thể làm chủ được những nhận thức, những Hành Động cá nhân, hay cũng để làm chủ được tương lai của mỗi con người một cách có căn cơ.
Mã A/B được giải theo trình tự hai giai đoạn: giai đoạn thuần về lý và giai đoạn thuần về cảm xúc.
Chúng ta biết rằng sự tiếp xúc của A tại B chỉ dưới một hình thức duy nhất, đó là Cảm Xúc; nó bao gồm những vui, buồn, v.v.... Vậy truy tìm A là có ý nghĩa, làm cách nào giải được nguyên nhân của các hiện tượng cảm xúc do A gây ra tại B, là gì?
Cách giải đầu tiên là chúng ta dùng kết quả giải mã B/A, để vận dụng lý đưa vào trường hợp đây để lý giải. Nó được gọi là cách giải thuần về lý và viết là “A/B Lý”.
Khi A/B Lý đã giải xong, có nghĩa là chúng ta đã thông hiểu A về lý. Nhưng do bản chất A là cảm xúc, nên chúng ta phải đạt thêm một bước, là giải A/B bằng cảm xúc, viết là “A/B Cảm”. (GC: Lý hay Cảm, như một Tư Duy có trong A).
Để giải A/B Cảm, chúng ta dùng kết quả của A/B Lý để vận dụng qua. Dùng A/B Lý để chủ động xây dựng một khái niệm Cảm Đúng, đem so với các hiện tượng Cảm Sai của A/B Cảm tương đương. Qua nhiều lần như vậy, chúng ta sẽ đạt được kết quả như sau: khi có sự so sánh giữa hai Cảm, thì cuối cùng bao giờ Cảm Đúng sẽ thay chỗ cho Cảm Sai để ghi vào trong A. Hay có nghĩa là hp đang thế chỗ dần của khp trong A vô thức của con người.
Bằng quá trình so sánh toàn diện qua nhiều hình thức Cảm, con người có thể hoàn thành được công trình xây dựng toàn Cảm hp tại A. Như thế, xem như việc giải mã A/B Cảm đã hoàn tất; cũng có nghĩa, con người đã có khả năng làm chủ được Trung Tâm Vô Thức A của mình.
Sau khi đã làm chủ được A và B, cũng có nghĩa con người đã có thể làm chủ môi trường Tinh Thần của mình. Nhưng nó cũng cần có thêm thời gian để các thói quen mới, biết cách phối hợp nhịp nhàng và hiệu quả giữa các Tâm với nhau, nhằm giúp con người sống một cuộc sống mới một cách thuần thục.
Nếu trong vận động sinh lý, các tế bào chứa gien đã tự động tách ra và sản sinh thành một cơ thể người chính xác, ngoài sự tác động ý thức chủ quan của con người; thì ngược lại, sự sống Tinh Thần của mỗi người, với A vô thức, sẽ có thể gây hại đến sức sống của con người, nếu như con người KHÔNG Ý THỨC làm chủ sự vận động tự phát của các vô thức A CHỦ QUAN và SAI LẦM của mình, mà mỗi người đã ngẫu nhiên tạo ra nó trong quá trình sinh trưởng.
Nếu để A tự phát, thì nó sẽ sinh ra các khp, và sẽ lôi kéo ý chí của con người thực hiện theo quĩ đạo khp đó trong một chu trình khép kính, mà cuối cùng sẽ làm hỏng sức sống của chính A. Khi A được lý giải chủ động, nó sẽ rơi vào qui trình sản sinh ra hp và lôi kéo con người vào quĩ đạo của sự sống phát triển thuận lợi, hợp lý và khoa học. Và đó là con đường dẫn đến sự sống hạnh phúc trần gian của con người, thông qua sự chủ động rèn luyện A tích cực trong mỗi người. Hay chúng ta còn gọi đó là Môi Trường Hạnh Phúc T, tiền đề cho sự ra đời của Môi Trường Hạnh Phúc V như đã được giới thiệu trong các chương trước.
10. VẤN ĐỀ CỦA PHỨC 12
Có thể hiểu, con đường Phức 12 là một phương pháp cho phép nghiên cứu trực tiếp Tâm A vô thức của con người. Nhưng sự nghiên cứu đó cũng đồng thời có nghĩa, đòi hỏi người nghiên cứu phải thay đổi tâm lý sống của mình, sao cho A là tâm điểm nền tảng để xây dựng nên mọi nhận thức về sự sống, cũng tức là phải có sự chủ động thay đổi về bản chất nhân sinh quan và thế giới quan của người nghiên cứu đó.
Giá trị nhân cách của mỗi con người được biểu hiện thông qua các mục đích, ý nghĩa và khả năng hoàn thành các công việc, mà người đó đang theo đuổi. Vậy, để xét Hành Động của một con người thì ngoài việc xét đoán theo cách thông thường, con người còn cần phải biết xét đến cái Tâm A của người đó nữa.
Đặc điểm của A là cảm xúc, nên qua cảm tính con người có thể cảm nhận bản chất của một sự việc, hay cũng có thể về bản chất của một con người. Tuy nhiên, sự liên hệ giữa bản chất và sự biểu hiện của một tư duy sẽ có thể là một khoảng cách để tìm ra sự thật, mặc dù giữa chúng bao giờ cũng là một sự liên kết thống nhất, bất di bất dịch với nhau.
Xã hội ngày nay chỉ quen xét xử con người thông qua các bằng chứng cụ thể mà thiếu cơ sở để xét đến cái tâm của con người, nên dễ thành kém cỏi trước các tội phạm và cũng dễ gây nên oan ức cho người vô tội.
Vấn đề là làm thế nào để qui cái tâm của con người ra thành có cơ sở lý lẽ chứng minh cụ thể, để áp dụng vào sự phán xét phân minh các Hành Động và nhân cách của một con người một cách hiệu quả: đó là một việc làm thiết nghĩ rất cần thiết cho thời đại ngày nay vậy.
Hay lời giải đó là: trong A ắt phải có nội dung và cảm xúc, vậy muốn hiểu A hiệu quả thì chỉ khi con người có A nội dung đúng và A cảm xúc đúng trước đã; sau đó, từ A Cảm của người này làm dẫn đường để hiểu A Cảm của người kia: sau đó, qui ra A nội dung để diễn thành A Lý sau cùng. Vậy, nếu lý sau cùng đúng, thì “A sai” sẽ có sự đồng cảm và tự giác tiếp nhận cái “A đúng” một cách tự nhiên vậy.
Muốn có A đúng về Cảm và Lý, con người có thể thông qua quá trình rèn luyện về A như cách của Phức 12, để khám phá ra những điều cần kiểm chứng.
Bản chất của A là vì sự sống từ cơ bản đến nâng cao, nên cũng đồng nghĩa với tình yêu sự sống. Mà sự sống trước tiên là CON NGƯỜI, vì vậy cũng đồng nghĩa với “tình yêu con người” hay đơn giản hơn là “TÌNH NGƯỜI”.
Do đó, con đường đến với A có cho kết quả quan hệ tình người gốc A hay không có gốc A, sẽ mang tính quyết định cho chất lượng rèn luyện A hay cho sự phát triển tinh thần lâu dài của mỗi con người vậy.
Nền văn minh nhân loại ngày nay được đánh dấu bởi các thành tựu to lớn về các công trình nghiên cứu vật chất hiệu quả. Sự hiệu quả đó gặt hái được là nhờ vật chất không có Tâm B, mà chỉ có sự vận động một chiều theo nghĩa “phản xạ” của các “Tâm A vật chất”.
Trong khi con người có Tâm A và có cả Tâm B nữa, nên sự vận động luôn mang tính hai chiều: chiều phản xạ và chiều chống lại phản xạ. Nguyên nhân có đến hai Tâm trên, là vì tại Tâm A của con người được có thêm mầm “CÓ Ý THỨC” trong quá trình vận động phát triển, nên nó đã làm xuất hiện thêm Tâm B trong Tinh Thần của con người.
“Có ý thức”, tức là con người có quyền điều khiển Ý MUỐN của mình theo một mục đích nhất định. Thế nhưng, cái gốc cơ bản của ý muốn là nằm tại A vô thức, chứ không nằm tại B ý thức như nhiều người đã lầm tưởng.
Vì lẽ đó, khi con người bỏ công nghiên cứu về “con người” với một B thiếu A, tương tự như các nghiên cứu vật chất khác, nên ắt phải dẫn đến các thất bại như ngày nay là điều hiển nhiên vậy!
Các cố gắng nghiên cứu như thế được đúc kết thành các hệ thống lập luận ngôn ngữ nhất định, qua các lý thuyết tương ứng. Hậu quả là sự khởi đầu của khoa học thường được dạy rất tốt, nhưng càng học cao thì cái tâm của con người như càng bị yếu dần. Trong khi đó, những người học thấp, người dốt, lại có khi phát triển cái tâm thuận lợi hơn, bởi vì họ ít bị tác động ảnh hưởng từ các lý thuyết kia hơn. Hệ quả là, sự phát triển về vật chất càng cao, càng dễ dẫn con người đến sự hư mất các giá trị cơ bản của lương tâm làm người đời!
Thông thường, Tâm A được hình thành ngẫu nhiên bởi hoàn cảnh. Do đó, khi con người phải sống trong hoàn cảnh ngặt nghèo, thường xuyên phải đối mặt giữa cái sống và cái chết, thì mới dễ thấy quí tình người; thì cũng là lúc cái tâm A của con người được rèn luyện hình thành một cách tốt nhất, phù hợp với cái bản chất và bản năng cơ bản nhất của con người.
Vì thế, người lớn tuổi, sống trong điều kiện khó khăn thời trước, dễ rèn luyện được cách sống nặng tình nghĩa hơn các thế hệ hậu bối thời nay; các thế hệ thời nay như chỉ nặng về hưởng thụ, trong điều kiện thuận lợi của mức sống vật chất dư thừa, sẵn có. - Nho giáo xưa chú trọng dạy về cái tâm trong quan hệ con người hơn, là cái dạy thời nay, nên người xưa cũng dễ tốt hơn người thời nay chăng.
Trong khi đời sống vật chất của con người không ngừng được đáp ứng dồi dào, thế hệ mới không ngừng được phát triển đông lên, còn thế hệ cũ thì ngày càng mất dần; thì ngôn ngữ quan hệ trong xã hội sẽ càng dễ bị phát triển theo hướng: sống đề cao sự hưởng thụ vật chất hay những giá trị cụ thể, và trong đó tình người có thể phải bị tính theo cân, đong, đo, đếm qua số lượng, v.v... Bởi giờ đây, con người như không còn cách nào để biểu hiện tình cảm, khi mà cái A của họ đã bị làm hỏng, đã không được hoàn cảnh cho rèn luyện đến nơi, đến chốn cái bản chất A nguyên thủy và phi vật chất của nó.
Đứng trước một nguy cơ thấy trước, con người muốn nhanh chân rượt đuổi, bắt bớ, giam cầm, xử tử, v.v... và phát triển văn hóa, giáo dục, xã hội, v.v... để khắc phục. Nhưng mọi xã hội phát triển giàu lên về vật chất đã cho thấy, đều có những hiện tượng bất bình thường xảy ra gần tương tự như nhau về những bất ổn và bạo lực, mặc cho bao biện pháp rào đón, dự báo từ trước, v.v...
Đặc điểm cơ bản của nền giáo dục về quan hệ con người trong các xã hội phát triển trong giai đoạn hòa bình, là sự mâu thuẫn giữa nhận thức và thực tế đang xảy ra trong đời sống nói chung.
Vậy, vấn đề đặt ra khi nghiên cứu về vùng vô thức A, là trong điều kiện của nền văn minh hiện đại ngày nay đang tiến vào đỉnh cao của sự phát triển công nghệ thông tin, thì nó có thật sự cần thiết cho đời sống của con người văn minh hiện đại ngày nay chăng?
Nếu gọi B là hình thức, thì A là nội dung; nếu gọi B là phương tiện, thì A là mục đích. Nội dung là nhân của hình thức, mục đích là phương hướng của phương tiện.
Sự sống thiếu A như người đi mất phương hướng, nên phải chọn phương tiện làm mục tiêu sự sống, lấy hình thức thay nội dung, đề cao hưởng thụ vật chất thay cho tình người, v.v...; để rồi sự sống của con người như càng bị rơi vào sự vô lý và bế tắc.
Xác lập được A trong gáo dục, thì lý thuyết và thực tế mới có khả năng phát triển cùng chiều, và sự sống của con người sẽ đi vào quĩ đạo của sự hợp lý, để làm mất dần thói quen... rượt đuổi và xử tử giữa con người với nhau chỉ vì vấn đề chân lý (!?).
Con đường làm chủ A phải bao gồm hai mặt Lý và Cảm với nội dung trùng khớp nhau, mở đường cho nhau chủ động xây dựng cho A có một hệ hp hoàn chỉnh.
Do A cũng là điểm nối giữa Tinh Thần với cơ thể con người, nên A sẽ có đường thâm nhập thứ hai ngoài đường từ B vào. Đó là đường đến trực tiếp từ C của cơ thể con người. Đường từ B vào bằng ngôn ngữ, đòi hỏi phải có sự chính xác, hợp lý, lô gíc, không mâu thuẫn với A, v.v...; đường từ C vào, đòi hỏi phải có sự kết hợp ăn khớp với nội dung của đường từ B vào, thì mới đạt hiệu quả (Xem phần IV, H.3 trong phần sau) cao.
Con người ngày nay do thường bị kẹt đường vào A tại B, nên chuyển qua khai thác đường vào A bằng con đường C. Vì thế, người ta thường thấy các hình phạt, khen thưởng, vinh quang, tuổi nhục, sung sướng, đau khổ, thành công, thất bại, v.v... của con người, đa số đều nhắm vào C làm đối tượng chính. Nhưng, do C không phải là con đường chính để có thể phát triển bản chất toàn diện của con người, nên mọi sự lạm dụng C vô nguyên tắc, đều không thu được kết quả như mong muốn, mà phải bị trả giá cho sự sai lầm hay lạm dụng đó.
Trong khi bản chất sự sống con người là Tinh Thần, xảy ra về hình thức tại B, nội dung tại A, và C là vật chứa đựng nhưng cũng là phương tiện để cụ thể hóa mọi giá trị, cũng như giúp đánh giá chất lượng toàn diện cuối cùng của các vận động của A và B.
Như thế, khi sự phát triển của con người không đồng bộ theo qui trình xếp đặt của tạo hóa, thì kết quả thu về chắc chắn sẽ không được như ý. Khi nhận kết quả sai, nhưng vì phải có kết quả đúng để làm điểm tựa cho sự sống phát triển, thì thực tế đã bắt buộc con người phải lấy sai làm đúng, thông qua các chứng minh kết hợp giữa C và B là chính, vắng A nguyên thủy.
Khi cái đúng, sai bị che khuất, thì sự sống sẽ có cái sai và cái đúng khác thay thế, nhưng tất cả chúng đều không thật. Cuối cùng “thật, giả, giả, thật” dựa vào nhau tạo nên một sự phát triển khá cân đối. Nếu muốn bỏ “sai” thì phải bỏ “đúng”, muốn giữ “đúng” thì cũng phải giữ “sai”; cả hai đều đã lòng vào nhau bản chất tồn tại thật của mình, nên mọi sự khắc phục phiến diện đều sẽ phải bị thất bại.
Do đó, trong xã hội văn minh, khi một trường phái lý luận đúng phát triển cực đại lên, sẽ dễ biến thành sai vì thiếu gốc chuẩn; để từ đó làm nảy sinh một trường phái lý luận nghịch chiều khác, có tính đúng đối trọng để tạo lực cân bằng với trường phái kia. Và lúc đầu nó còn đúng so với cái sai “dễ thấy” kia, để rồi thời gian sau đến phiên nó cũng lại trở thành bị sai lầm nốt, vì khi đối trọng chính của sự tác động sinh ra hệ lý luận mới đã bị diệt đi. Nay, khi đến phiên nó phải phát triển lên đỉnh cao một cách độc lập, là lúc bài toán bế tắc muôn thuở về nguồn gốc nguyên thủy của bản chất sự sống của con người là gì, lại được đặt ra và tiếp tục gây lạc hướng đúng đắn cho hệ lý đang phát triển độc lập đó.
Có thể hình thức biểu hiện cái sai, cái đúng rất đa dạng, nhưng đều có cùng một nguyên tắc theo đuổi: “con người muốn sống đúng, không ai muốn có sai để thành thất bại và hối tiếc”, nên cái sai nào rồi cũng có cái lý “đúng” để bảo vệ sự tồn tại tương đối của nó.
Bởi thế, đa phần con người không ai chịu từ bỏ mục tiêu mình đang theo đuổi một cách đơn giản, trừ phi tình thế không còn cách nào khác; vì ai cũng tin rằng mình không sai, hay phải sai để mà đúng, v.v... thì sao gọi là sai?..." Và vì thế, con người đã không sao thoát được sự lẩn quẩn về bài toán “sự sống”, khi mà cái A và sự định nghĩa về con người vẫn còn nằm trong bóng tối (?) của nhận thức!



Phần IV

NGHỀ SỐNG
1. ĐI CHỢ
Loài vật muốn sống phải đi kiếm mồi, loài người văn minh muốn sống phải đi chợ. Ngoài chợ có bán đủ thứ, mỗi thứ có nhiều người bán. Muốn hàng mình bán mau hết hơn các hàng khác, con người phải cố gắng làm cho nó vừa đẹp, vừa có chất lượng tốt và cũng phải vừa có giá rẻ hợp lý hơn.
Nhờ vậy hàng bán ngày càng phục vụ lợi ích cho người tiêu dùng một cách tốt hơn. Để làm hàng được như thế, con người cần phải có kỹ thuật, cần phải có nhiều kinh nghiệm tích lũy lâu năm. Người có những khả năng bí quyết đó được gọi là “có nghề”.
Nếu lấy nghề mà truyền dạy lại cho nhau, thì người học sau sẽ mau chóng biết làm ra những giá trị hàng tốt tương tự, thay vì phải mất nhiều thời gian mò mẫm như người lúc đầu mới tìm tòi nghiên cứu.
Sự sống con người ngày nay cũng vậy. Ai cũng biết sống cả, cứ thẳng ra chợ lựa đồ tốt, đừng mua lầm, v.v... thế là đã biết sống. Và con người phải làm một cái nghề gì đó để có tiền đi chợ, hay để tiêu dùng vào các mục đích khác trong sự sống của mỗi người.
Việc khác trong đời người là bao gồm những việc gì? Bao gồm rất nhiều việc, nhằm mục đích lấp đầy những khoảng thời gian “thừa” sau những việc liên quan đến cái vụ đi chợ ấy.
Những việc lấp đầy khoảng trống thời gian kia tưởng như rất rỗi hơi, ai dè cũng có khi sinh thành chuyện trọng đại, có thể ảnh hưởng đến chuyện buồn, vui và có khi đến cả tính mạng con người. Thế mới biết, không phải chỉ có chuyện đi chợ là trọng đại nhất đối với đời người đâu.
Nhưng ấy thế mà, những chuyện được xem là trọng đại kia lại có nguồn gốc từ việc đi chợ mà ra. Bởi cái lo cơ bản nhất của con người là phải có đủ tiền để đi chợ. Vì vậy, mọi người mới tranh nhau đi học thật nhiều nghề và mong được thật giỏi để không bị chê, để dễ kiếm việc làm và để có tiền mà sống.
Thế là chợ nghề xuất hiện, để người đi chợ dễ lựa mua những thứ gì mình thích học, còn người bán thì có chỗ giới thiệu cái nghề mình muốn dạy. Có người bán vô vị lợi, bán như cho, có người bán tính lãi từng đồng và cũng có người bán nghề kém chất lượng, lừa đảo, v.v...
Có đến chợ nghề mới thấy, không phải ai cũng có khả năng đến chợ để mua được nghề; vì vậy sinh ra có người không nghề, thành dễ bị thất nghiệp, - mà trong khi hằng ngày họ vẫn phải cần có tiền để đi chợ cho dù họ đang là thất nghiệp!
Người thất nghiệp nào cũng cảm thấy sự sống không dễ chút nào. Tuy nhiên, trong xã hội đâu chỉ riêng người thất nghiệp mới thấy khó sống, mà người có nghề nghiệp cũng vậy; vì có nghề mà có khi vẫn không tìm ra được chỗ để hành nghề.
Nhưng ngay cả khi đã có chỗ hành nghề, thì vẫn sao cảm thấy còn khó sống, vì tiền lương ít quá. Nhưng có tiền lương cao vẫn chưa hẳn đã dễ sống, vì những khó khăn do cấp trên đưa xuống ngoài khả năng giải quyết của người làm nhiệm vụ, v.v...
Nếu thế, cho họ lên làm cấp trên. Làm cấp trên cũng cảm thấy không dễ sống, vì trách nhiệm quản lý, vì sự cạnh tranh, vì các ràng buộc của cơ chế, v.v... và vì vấn đề định hướng phát triển cho một đơn vị đâu phải dễ.
Như thế ở đâu, con người cũng đều có thể cảm thấy khó sống. Thế nhưng, cũng có người thấy sự sống rất dễ...! Tuy nhiên, nếu hỏi người dễ sống, họ vẫn có thể nói khó sống, vì không biết sự dễ sống đó có lâu dài không? Hay có khi, bấy nhiêu đối với người này đã cho là dễ sống, nhưng đối với người khác thì cho đó là rất khó sống, v.v... Vậy, dễ sống là gì?
Kết quả của sự đi hỏi mãi, cuối cùng mỗi con người phải đành lấy chính bản thân sự sống của mình ra để “thử” sống và tự trả lời lấy. Nhưng kết quả thường vẫn không khá hơn bao nhiêu; chỉ khác là đã bị mất đi một phần thời gian của đời người, mà sẽ không bao giờ có thể tìm thấy lại nó thêm một lần thứ hai, để lại tiếp tục thử nghiệm “sống như thế nào mới gọi là dễ sống?”.
Vì vậy hiện tượng hối tiếc thời gian đã qua là một thực tế khá phổ biến trong xã hội hiện đại vậy.
Vậy làm cách nào để có thể giúp con người không phải đem đời mình ra để thử nghiệm sự sống một cách phiêu lưu, mà trong đó mười phần đã chắc thua hết chín! Vấn đề chỉ có cách, con người phải được tìm hiểu về sự sống một cách hiệu quả nhất, trước khi con người muốn bước vào cuộc sống với mục đích mà mình đã chọn.
Nội dung trên không có gì khác hơn là, con người cần phải được HỌC SỐNG trước khi phải bước vào cuộc sống chính thức của đời mình; mà thực tế nó chỉ xảy ra độc nhất một lần, vĩnh viễn không thể có lần hai để mỗi đời người có thể rút kinh nghiệm làm lại hoàn chỉnh hơn.
Lịch sử khoa học chưa có môn học nào dạy con người về khả năng nhận thức sự sống một cách toàn diện, để có thể làm chủ tương lai hạnh phúc của đời mình.
Con người khi lớn lên vào trường học, có thể được học rất nhiều môn vì lợi ích cho sự sống mỗi học sinh sau này. Nhưng trường học nào cũng đều không thể dạy về tương lai hạnh phúc của mỗi học sinh sẽ được hình thành ra sao. Khoa học ngày nay chưa thể trả lời được câu hỏi đó, nên cũng không có ai dạy về câu hỏi đó.
Tại sao khoa học hiện đại ngày nay vẫn chưa có câu trả lời đó? Lời đáp... có lẽ là do con người cho rằng khoa học khó có thể nghiên cứu hiệu quả hết các vấn đề phức tạp và trừu tượng đó. Hay tại vì lý do, nôm na là do con người phải bận lao vào các việc “đi chợ” ấy, đến những mối đe dọa trực tiếp từ các hiện tượng đời thường hay các vấn đề bạo lực, v.v..., nên thiếu điều kiện và thời gian để nghiên cứu sự sống của mọi đời người một cách hoàn chỉnh và khoa học.
Muốn sống mà con người không biết đi chợ nấu ăn, không thể tìm thấy lương thực cần thiết, thì sẽ bị chết vì đói. Sự sống muốn có đủ điều kiện tiện nghi và thoải mái để sống sung sướng hơn, thì con người cần phải có các công trình nghiên cứu khoa học về vật chất để có được sự phát triển về mức sống như ngày nay.
Tạo hóa đã xếp đặt cho con người một môi trường sống, mà trong đó nếu con người không nổ lực, bỏ công tìm tòi, khám phá, thì kết quả sẽ không tự đến với con người. Điều đó phải chăng không khác gì sự phân công giữa bên này là loài người, và bên kia là tạo hóa; mỗi bên phải hoàn thành vai trò của mình theo một cơ cấu vận động thống nhất.
Sự sống con người ngày nay, không ai cho rằng con người đã hoàn thành đến giới hạn trách nhiệm của mình trước sự phân công tự nhiên ấy; hay cho rằng, con người đã đến giới hạn của sự phát triển nên mọi cố gắng cải thiện mức sống chỉ là vô ích?
Xã hội loài người ngày nay còn nhiều người bất hạnh, còn nhiều người chịu sự bất công, thì phải chăng trách nhiệm của con người còn phải làm là vô hạn. Trong đó, yêu cầu tái lập lại mức sống cơ bản cho mọi người, phải là bước phấn đấu gần nhất.
Để giải quyết bất công, bất hạnh của nhiều người, thì trước hết mỗi người phải biết tự xây dựng sự sống hiệu quả cho chính mình. Để mỗi người có thể phát triển sự sống chủ quan của mình một cách hiệu quả, thì xã hội nên có người đi học về “sự sống” và có người dạy về “sự sống”. Vậy, NGHỀ SỐNG hay NGHỀ DẠY về CÁCH SỐNG cho con người sao cho đạt hiệu quả cao nhất, cũng nên được cho ra đời.
Con người học sống để sự sống không còn có những khó khăn vô lý, làm cản trở sự phát triển tự nhiên khả năng sống hạnh phúc của mọi con người.
2. CỬA HÀNG BÁCH HÓA
Khoa học chưa có Nghề Sống, nhưng không phải vì thế mà xã hội, từ lâu, thiếu người dạy cho nhau biết về sự sống. Từ cổ chí kim, không ai cho rằng người dạy sống phải có nghề mới dạy được, mà con người thường cho rằng: “hễ ai có ”quyền" là người đó có thể dạy về sự sống!".
Cha mẹ dạy con cái, người giàu dạy người nghèo, chủ dạy tớ, chính quyền dạy nhân dân, v.v... Để dạy cái gì và dạy ra sao, thì xã hội lâu nay chưa có một phương thức quản lý thống nhất và cụ thể nào cho vấn đề đó. Và đến một ngày kia, nếu như người học có trở thành kẻ có tội đối với xã hội, đối với mọi người, thì người ta sẽ phạt người học chứ không ai phạt người dạy bao giờ (!?)
Vậy cái học như thế phỏng có ích lợi gì? Thế nhưng khi người học mà không chịu học những điều người dạy muốn dạy, thì không thể được, vì người học sẽ bị khó sống bởi từ chính người dạy của mình. Nhưng học mà không tin tưởng sự lợi ích của nó, thì phải học thế nào cho phải?
Thế là, có người học để “đối phó” và “thực dụng”, hơn là sự thành tâm muốn đạt đến một chân lý sống nào đó. Cái học đối phó trong thời đại văn minh là rất đa dạng. Một con người từ nhỏ đến lớn, trải qua bao nhiêu hoàn cảnh khó khăn, bao nhiêu sự đe dọa, thì cần nghĩ ra bấy nhiều cách học để đối phó. Cuối cùng, nếu cộng chung chúng lại với nhau, sẽ tạo thành một tổng lượng kinh nghiệm sống “pha tạp”, tương ứng với một tổng lượng nhân cách đa dạng phức tạp ngoài sự mong đợi của cộng đồng xã hội đó.
Cái học đối phó, giống như người đi vào cửa hàng bách hóa tự ý lựa chọn những cái học nào mình thích, không cần biết nó có nguồn gốc tại đâu, chất lượng ra sao, ai chịu trách nhiệm, v.v..., mà chỉ cần nó phù hợp với sở thích của người muốn chọn là đủ (!?).
Nếu nay tại cửa hàng bách hóa đó, người ta ghi rõ xuất xứ, chất lượng, thời gian bảo hành, cách sử dụng, v.v... trên các sản phẩm, thì kết quả lựa chọn của người mua sẽ chắc chắn đạt tốt hơn.
Cũng tương tự như vậy, nếu ngày nay mọi cái học của con người đều được xác định rõ ý nghĩa và giá trị của nó một cách thống nhất, thì sẽ giúp được con người đỡ bị sai lầm và phí công “học lầm” biết bao nhiêu.
Vậy khoa học ngày nay cần nghiên cứu hình thành ra Nghề Sống, để làm nhiệm vụ, chức năng chỉ dẫn đó. Tuy nhiên, khoa học là ai? Khoa học dù là thế nào, nhưng cuối cùng cũng phải thông qua con người để biểu đạt thành lời, thành ngôn ngữ và nội dung để truyền đạt với nhau.
Nhưng đã là con người, thì ít nhiều phải có chủ quan sai lầm, nên con người vẫn có thể cho rằng cái học đang được dạy là đã tốt rồi còn cần gì nữa? Vì thế, chúng ta cần phải định nghĩa: “con đường học sống của con người được gọi là tốt và khoa học, khi mọi người đều cùng có chung một ”định nghĩa về sự sống", có cùng “một cách hiểu về sự sống” và có cùng “một mục đích để sống”."
“Định nghĩa sự sống”, là mỗi người phải hoàn thành trách nhiệm với chính mình và với môi trường mình đang sống, một cách thống nhất và không giới hạn ranh giới. “Cách hiểu về sự sống”, là mọi người đều có khả năng làm tròn trách nhiệm trên, khi đã được học tập, rèn luyện và đã cố gắng bằng tất cả sự hợp sức của mình với mọi người. Và mọi người phải có cùng “một mục đích sống”, đó là sự đi tìm sự sống hạnh phúc tốt nhất cho mình và cho mọi người.
Người ta lại nói, mỗi người đều có cái quyền riêng thiên phú, không ai có quyền bắt phải hiểu thế này, làm thế kia, sống thế nọ, v.v..., thì con người sẽ không khác gì cái máy, sự sống sẽ mất hết ý nghĩa và giá trị.
Nó cũng giống như người đi chợ, tha hồ mua các thứ tùy thích, miễn trả đủ tiền; còn lãng phí ra sao, đó không là vấn đề, bởi nó đã thuộc “quyền riêng tư của mỗi người kia mà!” (?).
Vì vậy, khi hỏi con người về nhận thức sự sống, thì có người trả lời và cũng có người không, hay thiếu thành thật khi trả lời; vì họ muốn chứng tỏ về quyền tự do sống của mỗi người, không ai có quyền bắt buộc phải sống như thế này hay như thế kia!
Trong chiến tranh con người đã có câu châm ngôn: “Thà phải đổ mồ hôi nơi thao trường, còn hơn đổ xương máu nơi chiến trường!”. Trong sự sống thực tế cũng nên:" Thà phải đổ công sức trong tranh luận, còn hơn phải hối tiếc cả một đời người, cả một thế hệ hay cả một tương lai!"
Tranh luận sẽ giúp con người tránh được những thất bại trong thực tế cuộc sống, mà mỗi lần thất bại, là phải trả bằng cái giá thời gian mất đi không sao lấy lại được. Có những thất bại trực tiếp làm ảnh hưởng đến sự sống con người rõ ràng, nhưng cũng có những thất bại làm suy giảm giá trị nhân cách chân chính của con người lúc nào không hay. Điều đó mới thật khó và đáng sợ hơn. Nhân cách chân chính đã mất, thì nó là bạn đồng hành của sự sống vô vị về nội tâm, rỗng tuếch về tinh thần, khô khan lạc lõng về tình nghĩa, khuôn sáo về lời nói, ác độc về Hành Động, buồn chán về cảm xúc, liều lĩnh trong ý đồ, lừa dối trong quan hệ, tham lam tôn thờ về vật chất, thô lỗ hàm hồ trong hành vi, v.v...
Và sự thất bại lớn nhất: con người có thể thành có thói quen sống “không thành thật” với chính mình, bằng cách tự biện minh và bao che cho sai lầm mình đã gây ra, cho các thất bại mình đã vấp phải. Có phải vì họ e sợ sự thật sẽ vượt quá sức chịu đựng hay vượt quá khả năng suy tính chủ động của một con người, và sẽ có thể làm mất đi sự sống hay mục đích sống mà họ đang theo đuổi chăng?
Sự thất bại nào cũng có nguyên nhân từ nhận thức mà ra, và được biểu hiện thành các dạng bế tắc trong các khía cạnh khác nhau của sự sống thường nhật của con người. Nếu sự tranh luận có thể giúp con người thoát ra được các bế tắc, các trở ngại khó khăn kia của cuộc sống, thì tin rằng ai cũng sẽ muốn tham gia tranh luận về những kinh nghiệp nhận thức về cuộc sống.
Có bế tắc dễ tranh luận, có bế tắc khó tranh luận; nên cần phải chuẩn bị điều kiện sao cho mọi bế tắc trong cuộc sống đều có thể có được lời giải hợp lý cho mọi người; điều đó ắt là một thách thức. Vì vậy, trước khi tham gia vào tranh luận, con người cần phải có những điều kiện giao ước ban đầu để mục tiêu cần đạt không bị sai lệch.
Vậy ai sẽ là người đặt điều kiện cho tranh luận?
Ai có đủ chứng minh để tin rằng: chỉ bằng con đường tranh luận mà mọi khó khăn, bế tắc trong sự sống quan hệ con người với nhau, đều có thể được giải quyết trong ôn hòa, bình đẳng và phi bạo lực; thì người đó sẽ có quyền nêu ra các điều kiện ban đầu đó.
- Chúng có thể là: con người cần được Học Sống trước khi bước vào sự sống; con người cần được trả lời, giải đáp mỗi khi gặp bế tắc, trở ngại trong cuộc sống; con người cần được tranh luận mỗi khi cảm thấy chưa đồng ý về một giải đáp nào đó; con người cần được có người chịu trách nhiệm chính trước mỗi hậu quả xảy ra trong cuộc sống, về mọi vấn đề của con người, của xã hội, v.v...
Các điều kiện trên là sự mở đầu cho sự hình thành một Môi Trường Hạnh Phúc V, mà chúng ta đã được giới thiệu trong nội dung về Đơn 13. Trong môi trường trên, con người sẽ được thuận lợi trong Học Sống, và tất yếu cũng sẽ có nhiều người biết về Nghề Sống; đó là những người có Nghề T, chuyên chỉ dẫn về Sự Sống. Họ có trách nhiệm lý giải toàn diện về sự sống của con người và xã hội.
Dạy và học sống theo một nội dung chung thống nhất mang tên, NỘI DUNG SỐNG. Vậy Nội Dung Sống sẽ có trách nhiệm chỉ cho con người, giới thiệu cho mọi người biết, làm cách nào để hiểu các nội dung học sống khác là đúng hay sai, và giới thiệu về nội dung sống của Môi Trường Hạnh Phúc V là gì.
3. NỘI DUNG SỐNG
Sự sống của mỗi con người đều phải gắn liền với một nội dung sống nhất định. Nội dung nào thì có cách sống ấy, cách sống nào thì có một mục đích sống tương ứng.
Vì vậy, nhìn cách sống có thể đoán được mục đích và nội dung sống của một con người. Mỗi cách sống đều có một trạng thái giao tiếp bên ngoài riêng biệt, con người có thể thông qua trạng thái đó cộng với một số thông tin thì có thể dự đoán nội dung sống của một con người, của một tập thể, của một tổ chức hay của một cộng đồng người rộng lớn.
Biết được nội dung sống thì có thể định ra một cách tương đối, ý nghĩa và giá trị sự sống của một đối tượng. Từ sự đánh giá đó, con người có thể suy đoán với nhau về con đường phát triển hạnh phúc của mỗi chủ thể đó sẽ ngả theo khuynh hướng nào.
Nếu sự phát triển đó theo một khuynh hướng hạnh phúc ngẫu nhiên, tự phát, thiếu định hình rõ ràng, thì nhất định đó chưa phải là một hướng phát triển có cơ sở khoa học, vì thế tỉ lệ thất bại sẽ cao.
Sự thất bại trong nội dung sống của mỗi người được biểu hiện cụ thể trước tiên, thông qua vốn nhận thức của đối tượng đó về “khái niệm sự sống và hạnh phúc của đời người là gì?”
Thông thường trong xã hội ngày nay, con người không hình thành thói quen lý giải tường tận về hai nội dung trên, mặc dù con người vẫn thường hay đề cập đến các nội dung đó. Phải chăng, đó là nguyên nhân, là điểm yếu của xã hội hiện đại, dẫn đến các hệ quả tiêu cực tất yếu trong sự phát triển của đời sống con người và xã hội.
Cách sống phổ biến của con người ngày nay là dành phần lớn thời gian vào công việc, để nuôi sống bản thân và gia đình mình. Điều đó là cần thiết nhưng chưa đủ. Vì trước mắt, nhìn chung, các lo toan hằng ngày đó của con người có khi đã đem lại “sự sống và sự chịu đựng”, nhiều hơn là tổng số thời gian hạnh phúc mà mỗi đời người có thể được hưởng.
Nếu có thời gian nhìn lại sự sống, nhìn lại các mục đích lo toan, theo đuổi, so với các kết quả gặt hái được trong mỗi đời người; thì phải chăng, con người sẽ cảm thấy hối tiếc thời gian đã qua nhanh so với những gì con người đã mơ ước trước khi vào đời.
Có người nghĩ rằng: “phải như thế, là vì cần phải hi sinh và dồn sức đầu tư cho các thế hệ mai sau”. Điều đó cũng tốt, nhưng chưa rõ ràng. Muốn “để lại cho con cháu” trước hết con người phải biết con cháu cần gì thì sự để lại đó mới thật sự có giá trị cao. Còn không, đó chẳng qua là cái cớ để biện minh cho sự bế tắc về nhận thức, xem đó như là lối thoát cho sự lý giải về ý nghĩa sự sống của những người hôm nay mà thôi.
Ngày nay, hậu thế cần có một lời giải toàn diện về sự sống một cách thực tế và hiệu quả hơn, hơn là những tài sản vật chất kết sù mà vẫn như vô nghĩa khi hưởng thụ. Hay những đòi hỏi đó, các thế hệ đang sống hôm nay cũng đang rất cần có các lý giải ấy, chứ không chỉ riêng gì các thế hệ sau mới đặt vấn đề.
Vậy nên, thế hệ hôm nay có tìm ra lời giải tốt, thì thế hệ mai sau mới có cái để hưởng. Tức là những con người hôm nay phải tự chứng minh cách sống thế nào là hạnh phúc trước đã, thì các hậu thế sẽ mới thật sự được hưởng một tài sản quý giá do các thế hệ đi trước để lại.
Phải chăng với điều kiện mức sống đang có hiện nay, con người đã có đủ khả năng thực hiện thành công một mức sống ý nghĩa và hạnh phúc cho mình và cho các thế hệ mai sau? Điều đó đòi hỏi mỗi người phải chịu khó bỏ ít thời gian để khám phá, và trả lời về sự sống đang xảy ra của chính mình và của mọi người xung quanh là gì.
Kết quả cuối cùng của bản chất sự sống con người là tùy vào “sự hình thành các cảm xúc về sự sống” trong mỗi con người. Nếu cảm xúc đó là thông lý nhiều thì hạnh phúc, mơ hồ nhiều là đau khổ. Vậy sự sống con người là sự tổng hợp các buồn vui, mà trong đó sao cho chúng được lý giải hợp lý, thống nhất, để có thể kết tụ nên sự phát triển ổn định khả năng cảm thụ hạnh phúc về sự sống trong mỗi đời người, trong sự thống nhất tất yếu với môi trường hạnh phúc chung của mọi người.
Khi con người kiếm được nhiều tiền, sự nghiệp thành công, gia đình lý tưởng, v.v... thì sự vui sướng sẽ đến với con người. Các niềm vui như thế cứ kéo dài, thì sẽ rất khó tránh khỏi sự đau khổ và bất hạnh cho con người. Vì sao?
Thường mục đích sống của mỗi con người được hình thành trên cơ sở của những ước muốn ban đầu, để cuối cùng con người đạt được chúng. Những thành quả do con người đạt được như thế, thì thường từ những ước muốn chủ quan do môi trường sống tác động ban đầu vào các giác quan của con người, để tạo nên chúng một cách ngẫu nhiên. Do đó, giá trị và ý nghĩa đúng sai của chúng cũng dễ thành ngẫu nhiên và thất thường.
Ngoài những ước muốn chủ quan và cụ thể trên, con người còn một ước muốn vô hình tiềm ẩn khác; những ước muốn khách quan của vô thức, chúng nằm ngoài sự nhận thức trực tiếp của con người. Bản chất của những ước muốn tiềm ẩn đó, thường được phát hiện dưới cái nghĩa; những hoài vọng lý tưởng hay những ước vọng về một giá trị hạnh phúc tuyệt đối nào đó trong mỗi đời người.
Thế nào là một ước vọng hạnh phúc tuyệt đối? Là mong muốn mọi vật, mọi việc, mọi cái đều xảy ra như ý muốn của con người. Nhưng trong cuộc sống, không có hiện tượng nào là đứng im, tất cả đều vận động, tất cả đều không ngừng thay đổi theo thời gian và thường không giống với ý muốn của con người.
Trong khi đó, khả năng thay đổi thói quen của não người chỉ có giới hạn. Vì vậy, khi con người quá say sưa theo đuổi một ước vọng cụ thể nào đó, thì con người dễ bị quên đi các hiện tượng khác của sự sống đang thay đổi chống lại con người. Thời gian kéo dài như thế dễ tạo nên cho mỗi con người một cách sống phiến diện bất ngờ, xa rời cái bản chất thật của môi trường sống đã và đang đổi mới xung quanh họ.
Cách sống đó chỉ cho con người khả năng thích nghi với một môi trường sống nhất định. Nhưng khi bất ngờ phải đối diện với các thực tế của môi trường sống đã đổi khác, thì con người cảm thấy thiếu khả năng nhận thức về chúng, để có thể thích ứng với sự việc hay với bản chất tiềm ẩn của môi trường. Thế là sự đau khổ nội tâm xuất hiện, vì các kết quả xảy đến giờ đây đã không đúng với những gì con người đã quen hình dung và mong muốn.
Đứng trước những thất bại bất ngờ đó, con người dễ sử dụng đến các cách đối phó bị động, có tính bạo lực chủ quan, v.v...; thì sẽ chỉ làm cho vấn đề càng thêm bị thất bại. Và như thế, sự đau khổ nội tâm của con người sẽ càng lan rộng và ngày càng bị khoét sâu hơn !
Lĩnh vực thường làm cho con người rơi vào thất bại trên, phần lớn đều nằm trong vấn đề quan hệ giữa con người với nhau. Đó cũng là vấn đề liên quan đến đạo đức của mỗi con người, là bộ mặt biểu hiện nhân cách, hay cũng là đầu mối của sự thành công hay thất bại của các giá trị về mức sống hạnh phúc nội tam của mỗi con người.
Phạm trù quan hệ con người với nhau là đối tượng không thể thiếu, trong nhận thức của mọi người đang sống trong thời đại văn minh ngày nay. Sự quan hệ đó không đơn giản chỉ là một hiện tượng tùy hứng như có người vẫn tưởng, mà nó thật sự cũng là một ngành khoa học chuyên môn quan trọng như bao ngành khoa học khác. Nó cũng là một thứ nghề nghiệp mà con người cần được trau dồi học tập và rèn luyện, thì mới có thể ứng phó đạt hiệu quả trong các quan hệ sinh tồn nói chung.
Do thiếu các nhận thức trên, nên trong tất cả các hoạt động nghề nghiệp sinh tồn và phát triển, phải chăng mọi con người đều đã vấp phải nhiều hay ít các sai lầm trong vấn đề của bài toán quan hệ con người với nhau ấy.
Nhưng do đây là một quan hệ đặc biệt khác với tất cả mọi quan hệ khác của con người, nên sự biểu hiện sai lầm thành hậu quả của nó, cũng khác với bất kỳ sự biểu hiện sai lầm nào khác trong cuộc sống.
Đặc điểm của quan hệ con người với nhau là ngoài sự quan hệ giữa người này với người khác, nó còn là sự quan hệ của mỗi người với chính nội tâm của mình. Biết rằng nội tâm với lương tâm, là điều kiện chính để con người quan hệ tốt với nhau, là nền tảng tạo nên sức sống của mọi động lực sinh tồn tích cực của con người. Do đó, khi mỗi người vấp phải sai lầm trong quan hệ với mọi người, thì nó sẽ phải dẫn đến sự sai lầm diễn ra bên trong nội tâm của những con người đó. Và điều đó sẽ làm suy yếu sức sống hạnh phúc của họ vậy.
Khi nội tâm phải thường bị phá hỏng một cách vô ý thức, thì cũng có nghĩa là sức sống của các động lực sống cơ bản trong mỗi con người đang bị hủy diệt dần. Sự hủy diệt nội lực đó được biểu hiện dưới hình thức, mất khả năng đề kháng của con người trước các tác động đa dạng của môi trường sống xung quanh, hay của xã hội đối với mỗi người.
Các diễn biến trên nếu vẫn tiếp tục bị khoét sâu, thì con người sẽ dễ bị chuyển sang các trạng thái bi quan tiêu cực, hoặc dẫn đến sự điên loạn tâm thần, hay dẫn đến sự tự kết liễu vì quá đau khổ và bế tắc!
Thông thường, để tránh rơi vào các hậu quả tiêu cực nặng nề trên, con người sẽ phải thay đổi các cá tính tích cực và tốt đẹp ban đầu, để thay vào đó bằng những thói quen của cách sống tiêu cực hơn, nhưng có khả năng thích nghi hơn! Vì thế, khi con người không còn những quan hệ mang tính tích cực, nhiệt tình, cảm thông, sẵn lòng, v.v... như ngày nào nữa, thì sẽ được thay bằng những quan hệ mang nặng sự tính toán thiệt hơn, một cách chủ quan, sai lầm và không có lợi cho sự sống phát triển của con người nói chung.
Thường con người lớn lên trong xã hội hiện đại đều biết cách tính toán trong quan hệ con người với nhau. Người ta tính rằng: sẽ hi sinh cho không hay cho để trao đổi, mua bán, theo cách tính lời, lỗ, tốt, xấu, hay, dở, v.v..., hay không muốn cho ra mà chỉ muốn “có” về mình tất cả, v.v...
Có thể nói, sự tính toán trong quan hệ con người với nhau là một đặc trưng không thể thiếu của con người văn minh hiện đại ngày nay vậy. Và sự thành hay bại của nhân cách con người sẽ tùy thuộc vào những khả năng tính toán đó của mỗi người, trong quá trình tham gia sự sống của đời họ đối với môi trường xã hội, một môi trường luôn chứa đầy những cạm bẫy bất ngờ và phức tạp.
Và hình như, ngày nay con người đã tính sai nhiều hơn là biết tính đúng trong bài toán về quan hệ con người với nhau? (!)
4. BÀI TOÁN QUAN HÊ
Đặc điểm của xã hội văn minh là sự sống con người được nuôi dưỡng bằng số lượng hàng hóa được sản xuất ra để trao đổi, mua bán, v.v... với nhau. Giá trị cơ bản của hàng hóa được tính bằng thời gian. Nhưng các quan hệ con người với nhau cũng đều phải mất thời gian; vì vậy con người văn minh hiện đại muốn sống, đều phải biết tính toán trong quan hệ với nhau như phải tính... trong các mua, bán, trao đổi hàng hóa vậy.
Nếu con người tính toán dở thì sự sống con người trở nên khô héo, buồn chán và thất bại. Nếu con người tính toán giỏi, thì sự sống con người sẽ phát triển thuận lợi hơn, sự thành công và hạnh phúc cũng sẽ đến với con người một cách trọn vẹn hơn.
Xét về bản chất của quan hệ con người, thì không ai cho không ai thứ gì mà không mang lợi ích gì về cho bản thân họ bao giờ. Nhưng xét về hình thức, thì có thể người này cho không người kia món quà và không nhận về bất cứ vật gì có giá trị. Nhưng sự thật, người cho đã nhận về mình một món quà quý giá đặc biệt khác, đó là món quà vô giá về tinh thần trong mối quan hệ đó.
Như vậy, trong quan hệ con người với nhau luôn xảy ra hai hiện tượng giá trị phát triển song song với nhau, đó là hiện tượng vật chất và hiện tượng tinh thần. Nếu trong quan hệ, con người không biết đưa hai yếu tố trên vào bài toán, thì kết quả phép tính sẽ dễ trở thành hời hợt, qua loa, thiếu chính xác hay không hiệu quả.
Hãy làm một thí nghiệm. Ví dụ, bạn cho một người đi vay một số tiền nhưng với thái độ khinh bỉ; bạn sẽ thấy, có người không nhận số tiền đó, hay có người nhận vì khó khăn nhưng bên trong người đó sẽ có thể ngầm không kính trọng bạn.
Thông thường có người nghĩ rằng, những giá trị tinh thần của người đi vay kia không quan trọng, vì nó vô hình. Nó chỉ thoáng qua rồi biến mất, không có ai thấy và biết đến nó. Có thể mọi người sẽ không ai biết về phản ứng đó, ngoại trừ sự nhận thức nội tâm của người đi vay kia. Tuy nhiên, thời gian sau người đi vay kia cũng sẽ có thể quên nốt sự kiện đó.
Nhưng sự thật không đơn giản chỉ diễn biến như vậy, mà hành vi kia của bạn đã ngay tức thời được ghi vào vô thức A của bạn một cách tự động, ngoài ý muốn của bạn. Từ A nó thông tin thành (A), để kêu gọi bạn tiếp tục những hành động khinh người tương tự. Một ngày kia, bất ngờ do một sự thiếu cảnh giác ngẫu nhiên, hành vi kia của bạn được tái lập nhưng lần này với một đối tượng ngoài ý muốn, và thế là hậu quả khôn lường ập đến... và sự sống quan hệ hay tinh thần của đời bạn sẽ bị thất bại!
Người ta thường nói, “Ở hiền, gặp lành”; “ở ác, ác trả ác báo !”, là những lời khuyên tưởng như chỉ để mà nghe, nhưng sự thật nó cũng có cơ sở để chứng minh tính khoa học của nó.
Chúng ta cần lưu ý, thí nghiệm trên đây chỉ đúng khi theo dõi một hiện tượng xảy ra trong thực tế ngoài cuộc sống. Còn nếu chúng ta tự làm thí nghiệm một cách có ý thức, thì kết quả sẽ khó kiểm tra hơn.
Như vậy cách giải về bài toán trong quan hệ, là con người phải tìm hiểu mối quan hệ chung giữa các hiện tượng vật chất và tinh thần là như thế nào. Người ta thường nói: “muốn có đạo đức thì đừng làm giàu, muốn làm giàu thì đừng có đạo đức!”.
Để hai yếu tố trên cùng được phát triển hài hòa và hợp nhất với nhau, con người cần phải xác định được mục đích chính của bài toán quan hệ là gì. Dù phải xét từ góc độ nào, thì mục đích chính của bài toán quan hệ vẫn là vì sự sống hạnh phúc của con người. -Biết rằng bản chất của hạnh phúc là một hiện tượng cảm xúc.
Vậy mọi tính toán trong quan hệ để nhằm đem đến cho con người sự phát triển tối ưu về cảm xúc hạnh phúc, chứ không phải cảm xúc nhiều tiền, nhiều của cải mà con người thường quen lầm lẫn và ngộ nhận.
Qua các chứng minh từ các phần trước, chúng ta đã biết cảm xúc hạnh phúc có mối liên quan cơ bản và trực tiếp với đạo đức, vì nó đại diện cho ý thức tình người, cho ý thức làm chủ nội tâm và cho khuynh hướng muốn xây dựng một thế giới cộng đồng hạnh phúc, ấm no và phi bạo lực.
Mặt khác, chúng ta cũng biết rằng trong mọi hoạt động của quá trình kiếm tiền làm giàu của con người, đều có xuất hiện đồng thời nhiều phản ứng cảm xúc sống nhất định. Thường các cảm xúc đó mang nặng mùi “tiền”, mùi “vật chất” hơn là mùi “hạnh phúc”, mùi “tinh thần”.
Do nguyên tắc ghi nhớ tự động của A, nên cuối cùng sau thời gian con người có nhiều tiền, thì cũng đồng thời trong A cũng có nhiều cảm xúc “tiền”. Vì “A tiền” nên sẽ tiếp tục thúc đẩy cách sống “tiền” của con người được phát triển theo lực quán tính, mặc dù trong lúc này con người cần cách sống hạnh phúc hơn là cần có nhiều “tiền” nữa. Thế là bi kịch của cuộc sống bắt đầu được định hình cụ thể dần từ đó!
Như vậy, do bài toán quan hệ của con người trong một quá khứ lâu dài đã được tính trên lời giải “vì cái lợi của đồng tiền”, nên nay muốn thay đổi ngay là không thể được, bởi nó đã bị ghi sâu vào vùng vô thức A của con người mất rồi!
Cách sửa, một là ngay từ đầu trong bài tính quan hệ, con người phải vừa có lời giải “vì đồng tiền”, đồng thời cũng phải có cả lời giải “vì sự sống hạnh phúc” đi kèm, với ý thức mục đích sau là then chốt, thì kết quả hậu vận mới trở nên trọn vẹn, sự sống hạnh phúc và tiền tài mới phát triển đến đích song song và toại nguyện.
Hai là, đối với trường hợp đã vấp sai lầm dẫn đến hậu quả, thì cách sửa được giải theo nguyên tắc: nếu gọi vật chất “tiền” là (–), tinh thần đạo đức là (+), thì âm (–) và dương (+) phải luôn cân đối. Vậy nay con người đang có (–) nhiều, thì cố gắng hoạt động đạo đức (+) nhiều lên để kéo mức sống trở lại quân bình và hạnh phúc.
Vậy thế nào là “đạo đức hạnh phúc” và thế nào là “đạo đức không hạnh phúc”. “Đạo đức hạnh phúc” là đạo đức có mục đích sống chính là “vì hạnh phúc”, và “đạo đức không hạnh phúc” là tất cả đạo đức mà mục tiêu không xác định cụ thể là “hạnh phúc”. Ví dụ, “mục đích sống là vì nhiều tiền” là thuộc về “đạo đức không hạnh phúc”, vì đó chỉ mới là phương tiện của hạnh phúc chứ chưa phải là “hạnh phúc”.
Làm cách nào xác định và thực hiện một lúc hai đạo đức trên trong cuộc sống thực tế đời thường, đó là một vấn đề cần phải được tính toán chi ly với những minh chứng và những chỉ dẫn cụ thể.
5. ĐẠO ĐỨC HẠNH PHÚC
Đạo Đức Hạnh Phúc là tất cả mọi hành vi, quan hệ, phù hợp với lương tâm con người. Lương tâm con người là xem trọng giá trị quan hệ đem lại “hạnh phúc” cho con người là trên hết. Hay Đạo Đức Hạnh Phúc là sự quan hệ có lợi cho riêng mình, nhưng đồng thời cũng phải nghĩ đến có lợi cho mọi người và cho các thế hệ mai sau.
Đạo đức nào cũng phát triển trên nền của một cơ chế tổ chức nhất định nào đó, vì một mục đích sống của một nội dung sống tương ứng nào đó.
Nơi nào có số lượng từ hai người trở lên, thì nơi đó có nhu cầu về một cơ chế tổ chức trật tự, dựa trên một nội dung đạo đức nhất định nào đó. Mô hình tổ chức trật tự tốt nhất là “mô hình tổ chức tự giác”. Sự giữ gìn trật tự tổ chức trong tự giác chỉ đạt được, khi con người có được một nhận thức thích hợp, mà mọi người có thể xem đó là điểm tựa tốt nhất để tất cả cùng có thể được sống trong hòa bình, thống nhất và hạnh phúc.
Có nghĩa là mô hình tổ chức đỉnh cao chỉ có, khi con người xem đạo đức sống của mô hình đó là điều kiện không thể thiếu cho sự sống lương tâm của mỗi người. Mà nhận thức cơ bản của con người về đạo đức, là Lý Lẽ của Lẽ Phải. Vậy có thể nói, lẽ phải là yếu tố quyết định tương lai hạnh phúc của con người. Chúng ta có thể phát họa: một mô hình tổ chức tối ưu trong Môi Trường Hạnh Phúc V, chỉ sẽ được hình thành trên nền của Mô Hình Đạo Đức Hạnh Phúc có Lý lẽ của Lẽ Phải Hạnh Phúc làm chuẩn.
“Hình Thức Chính” của Lý Lẽ của Lẽ Phải là các nội dung của ngôn ngữ, tiếng nói hay chữ viết. “Hình Thức Phụ” của Lý Lẽ của Lẽ Phải là các thái độ, hành vi và các biểu hiện Hành Động khác trong cư xử quan hệ con người với nhau.
Trong các đạo đức khác hay Đạo Đức Không Hạnh Phúc, con người quen nhìn các nội dung trên theo trật tự ngược lại. Hình Thức Chính đóng vai trò phụ và Hình Thức Phụ đóng vai trò chính, trong quan hệ sự sống giữa con người với nhau.
Vì thế trong đạo đức cũ, con người chú trọng nhiều đến các thái độ, hành vi cư xử, các biểu hiện hình thức giữa con người với nhau, v.v... Hay họ thích các hành động cụ thể, kết quả cụ thể, hơn là biết cách phân tích ý nghĩa bên trong của các hiện tượng hình thức ấy, để qua đó con người có thể biết được chúng có liên quan đến “cái tâm” của con người như thế nào.
Bởi thế ở môi trường đạo đức cũ, Đạo Đức Không Hạnh Phúc, con người dễ bị đánh lừa nhau, vì thói quen nặng về hình thức. Chỉ với một vài hình thức công phu rèn luyện, trau chuốt bên ngoài, thì con người đã có thể lừa gạt nhau để đạt được một số mục đích nhất định. Hay chúng có thể gây ngộ nhận cho chính người đó, về cái vẽ hình thức đạo đức mà họ đang giả đóng vai.
Nếu xét về động lực nội tâm, thì Hình Thức Phụ là sự biểu hiện trực tiếp của các cảm xúc của con người. Tuy nhiên, do con người có thể chủ động điều khiển hành vi, thái độ, cảm xúc, v.v... (đóng kịch) của mình trong một không thời gian nhất định, nên con người vẫn có thể tạo dựng một Hình Thức Phụ giả, sao cho nó phù hợp với xu thế yêu cầu của môi trường công việc và sự sống xung quanh đang đòi hỏi. Và mọi sự đóng kịch lâu ngày một cách tự nhiên như thế, sẽ có thể biến thành bản chất sống “hai mặt” của người đó.
Song, nếu có điều kiện theo dõi xuyên suốt toàn diện mọi biểu hiện của cả hai hình thức, thì con người có thể khám phá ra tương đối bản chất thật của một hiện tượng hay của một con người. Tuy nhiên, thường trong các quan hệ xa lạ, con người không có đủ điều kiện để biết được các thông tin toàn diện đó, trừ phi có một tổ chức. Bởi thế, con người sau khi gặp thất bại, mới có thể biết ra mặt trái của đối tượng, mà từ lâu họ tưởng như đã biết rõ!
Nếu trong quan hệ, khi con người tin mình có lẽ phải và có đủ khả năng, thì con người sẽ chọn cách quan hệ theo thứ tự chính và phụ hợp lý.
Trên thế giới ngày nay, để giải quyết các quan hệ giữa con người với nhau nói chung, con người không chỉ dùng lý lẽ mà còn phải cần đến cả bạo lực như một điều kiện tiên quyết để có thể giữ gìn an ninh trật tự xã hội.
Đạo Đức Hạnh Phúc dùng Hình Thức Chính làm phương tiện cơ bản để giải quyết thành công mọi quan hệ con người. Như vậy, chỉ bằng lý lẽ của Lẽ Phải Hạnh Phúc, con người vẫn có thể xây dựng thành công một xã hội an ninh và trật tự. Điều đó sẽ làm cho các hình thức quyền thế và bạo lực trong quan hệ con người dần dần bị biến mất trong xã hội của Đạo Đức Hạnh Phúc, để thay bằng một hình thức quan hệ kiểu mới hiệu quả hơn, văn minh văn hóa hơn.
Phương thức vận dụng lý lẽ trong Hình Thức Chính, là tranh luận bình đẳng để tìm ra lẽ phải cho Hành Động, cũng như cho sự phát triển thuận lợi nhất mọi khả năng sống hòa bình và hạnh phúc giữa mọi người với nhau.
Quyền tranh luận bình đẳng là quyền sống cơ bản của mọi con người. Mọi con người còn sống đều còn quyền tranh luận bình đẳng trong Môi Trường Hạnh Phúc V.
Mỗi con người có một “sự sống riêng” và một “sự sống chung”. “Sự sống riêng” có những Lý lẽ Riêng tối thiểu, mà thiếu nó con người không thể tự bảo vệ “sự sống bằng lòng” trong sự vui sống và hạnh phúc của riêng cá nhân người đó. “Sự sống chung” có những Lý lẽ Chung, nếu thiếu chúng thì mỗi người sẽ không còn thấy bằng lòng, yên vui và hạnh phúc trước các vấn đề chung nữa.
Như vậy, Lẽ Phải Hạnh Phúc là mỗi con người đều phải đồng thời nhận thức một lúc hai lý lẽ, lý lẽ của “sự sống riêng” hoặc Lý lẽ Riêng, và lý lẽ của “sự sống chung” hoặc Lý lẽ Chung; và phải có đủ khả năng hợp nhất hai lý lẽ trên lại thành nội dung của một Lý Lẽ Thống Nhất trong một thời điểm nhất định.
Thông thường, con người chú trọng Lý lẽ Riêng mà quên Lý Lẽ Chung, hay chú trọng Lý Lẽ Chung mà quên Lý Lẽ Riêng, hay chú trọng cả hai lý lẽ nhưng không biết cách nào thống nhất chúng lại với nhau.
Hoặc biết lý lẽ là một chuyện, nhưng làm cách nào để lý lẽ đó mang tính chất của lý lẽ của Lẽ Phải Hạnh Phúc, là một khó khăn cũng cần phải được tính đến để nghiên cứu và xây dựng cho hoàn chỉnh.
Ví dụ, em bé “đòi ăn” là Lý Lẽ Riêng. Người mẹ hướng dẫn em bé cách ăn uống cho gọn gàng lịch sự, đó là Lý Lẽ Chung. Một người bán hàng nói giá bán đúng với chất lượng hàng, đó là “Lý Lẽ Hạnh Phúc”. Người bán hàng khác nói giá có tính lừa dối với khách hàng, đó là “Lý Lẽ Không Hạnh Phúc”.
Lý Lẽ Riêng của mỗi người thì chỉ có người đó mới có thể biểu đạt chúng ra một cách đúng nhất, ngoài ra không ai có thể thay thế hay đại diện cho họ một cách hoàn chỉnh hơn. Ngược lại, Lý Lẽ Chung là nói lên quyền lợi của cái chung, quyền lợi của nhiều người; nó thường dễ hiểu, dễ thấy theo các nguyên tắc công khai thống nhất, nên có thể cử người đại diện am hiểu việc chung, chịu trách nhiệm thực hiện chúng cho chu toàn.
Tuy nhiên, Lý Lẽ Chung bao giờ cũng được hình thành trên nền của Lý Lẽ Riêng, nếu không có Lý Lẽ Riêng thì sẽ không có Lý Lẽ Chung. Vì vậy, con người cần bỏ công, chịu khó suy nghĩ tìm hiểu về Lý Lẽ Riêng trước rồi mới bắt cầu xây dựng Lý Lẽ Chung sau, thì mọi việc mới thuận buồm xuôi gió. Cũng như, phải biết dụng Tâm A trước thì mới khiến được Tâm B vậy.
Nguồn gốc của Lý Lẽ Riêng được phát sinh đầu tiên, từ nhu cầu sống bẩm sinh của bản năng mỗi người. Nội dung của các nhu cầu thuộc về các Lý Lẽ Riêng đầu tiên của một đứa trẻ đối với người khác, là được đáp ứng các Món Ăn Vật Chất như: lương thực để ăn, các vật dụng để tò mò tìm hiểu, để chơi, các từ ngữ để phân biệt các hình ảnh thấy được, v.v...
Sau các Món Ăn Vật Chất là các phát hiện có nhu cầu của trẻ về Món Ăn Tinh Thần như: thích được chiều, thích chọn người để vui đùa, không thích bị sợ hãi, thích được yêu thương, v.v... Đến đây Lý Lẽ Riêng đã có sự kết hợp đồng thời cả hai mặt, vật chất và tinh thần.
Mặt tinh thần, lúc đầu chỉ mang nội dung yêu hay ghét, thích hay không thích, nhưng sau đó được phát triển lên thành có chứng minh lập luận; tại sao yêu hay ghét cái này, tại sao thích hay không thích cái kia, v.v...
Và đến đây, nhu cầu tranh luận bắt đầu xuất hiện trong đời sống quan hệ giữa con người với nhau. Vì tại sao, ví dụ, cùng một món đồ chơi hai trẻ đều thích cả, nhưng đứa này thì được đứa kia thì không. Đứa được đồ chơi, ngay tức thời trạng thái tâm lý, thái độ sinh hoạt, suy nghĩ, lời nói, cách sống, v.v... sẽ chắc chắn khác với đứa trẻ không có đồ chơi, mà phải đứng nhìn với cặp mắt thèm thuồng đối với đứa kia.
Khi đứa trẻ không có đồ chơi đòi được biết tại sao có sự bất công trên, thì lý lẽ đòi hỏi, thắc mắc, cũng như những câu trả lời mà nó nhận thức được, đều được gọi chung là có mang “nội dung tinh thần”.
Tổng kết lại, chúng ta có thể phân thành ba nội dung Lý Lẽ Riêng: một là vật chất với tinh thần tiềm ẩn, hai là vật chất và tinh thần, và ba là tinh thần với vật chất tiềm ẩn.
Ví dụ, con người tranh luận giải một bài toán về một qui trình thiết kế kỹ thuật; đó là Lý Lẽ Riêng có nội dung vật chất với tinh thần tiềm ẩn. Tranh luận để cho vay tiền với người đang khổ, đó là Lý Lẽ Riêng có nội dung vật chất và tinh thần. Tranh luận lý lẽ về ý nghĩa đạo đức của một hành vi quan hệ, đó là Lý Lẽ Riêng có nội dung tinh thần với vật chất tiềm ẩn.
Nội dung tinh thần tích cực thường sẽ trở thành dễ hiểu, khi con người đang trong cảnh khó khăn và cần được người khác giúp đỡ, v.v... Nội dung tinh thần, tuy nó tồn tại dựa trên sự vận động của vật chất, nhưng nó lại là yếu tố cuối cùng quyết định sự đau khổ hay hạnh phúc của sự sống mỗi con người.
Yếu tố tinh thần, trong đời sống nó như xuất hiện sau, nhưng không phải vì thế mà kết luận chung là nó có sau vật chất; sự thật nó vẫn có từ trước dưới dạng tiềm ẩn. Có thể nói, nơi nào có vật chất thì nơi đó đã có tinh thần; hay nơi nào có lý lẽ quan hệ từ hai người trở lên thì nơi đó cần có đạo đức làm nền, hay nơi nào có VẬN ĐỘNG thì nơi đó có CÁCH VẬN ĐỘNG, v.v...
Qua nội dung trình bày trên, chúng ta thấy rằng nội dung tinh thần phát triển từ tiềm ẩn đến xuất hiện kết hợp và cuối cùng tồn tại độc lập, đẩy nội dung vật chất sang hình thức tiềm ẩn.
Ngày nay, nội dung tinh thần của Lý Lẽ Riêng nên được trở thành một ngành khoa học độc lập, có tính quyết định đến giá trị cuối cùng của ý nghĩa tồn tại của tất cả các ngành khoa học khác. Hay nó cũng là cơ sở để xây dựng nên môi trường Đạo Đức Hạnh Phúc cho tương lai xã hội loài người vậy!
6. LÝ LẼ RIÊNG VÀ CHUNG
Ngày nay, khi có một nội dung quan hệ giữa con người với nhau, thì nhất định nó phải thuộc về Lý Lẽ Riêng hoặc Chung, với nội dung có dạng hình thức thuộc một trong ba cách kết hợp giữa vật chất và tinh thần như đã nêu.
Vậy các quan hệ trên dù thuộc nội dung gì, hình thức nào, thì cũng đều có đính kèm theo một giá trị tinh thần nhất định; tức là chúng phải lệ thuộc vào một phạm trù đạo đức phải trái nhất định, không thể tránh khỏi. Nó xảy ra ngoài ý muốn của mỗi con người.
Trong quan hệ con người, bao giờ cũng có xuất hiện hiện tượng đồng cảm về mặt tinh thần. Vì lẽ đó, môi trường tinh thần luôn luôn và vĩnh viễn là một môi trường thống nhất. Nó thống nhất về thời gian và không gian, nó thống nhất từ quá khứ, hiện tại đến tương lai, nó thống nhất từ địa phương này đến địa phương khác thông qua sự thông tin liên lạc, v.v...
Do đặc tính thống nhất đó, mà một nội dung phải hay trái của một thành viên xã hội, có khi không đơn giản chỉ với một góc độ địa phương mà có thể phán xét thành công. Nếu một nội dung đạo đức phán xét không thành công, thì các nội dung còn lại dù nhỏ hay lớn, đều ít nhiều vấp phải những sai lầm nhất định.
Chỉ có điều, sự sai lầm của một vài lý lẽ, một vài nội dung, một vài hành động hay của một vài cá nhân nào đó, xem ra không có gì đáng kể. Nhưng sự kém khả năng phát hiện và sửa chữa chúng kịp lúc, kịp thời thì sẽ thành nguyên nhân gây nên những hậu quả lớn về sau.
Như vậy, vấn đề là làm cách nào phát hiện và sớm điều chỉnh các biểu hiện sai lầm tinh thần ngay từ đầu của con người, sẽ là một thách đố có ý nghĩa quyết định cho sự sống hiện tại và tương lai của con người vậy.
Để giải quyết hiệu quả vấn đề trên, con người cần phải có một qui trình đào tạo về khả năng tinh thần cho con người, sao cho mọi sai lầm của con người về mặt tinh thần đều được phát hiện nhanh chóng; mà con người, thường do điều kiện lôi kéo của sự sống nên không phải ai cũng có thể làm chủ được các khả năng đó.
Vì lý do đó, con người cần được đào tạo cơ bản về Nghề Sống để mọi người, trong đó có những người được đào tạo chuyên nghiệp, đều có khả năng chủ động giữ lấy cuộc sống của mình được phát triển đúng hướng.
Một trong các nhận thức cơ bản của mỗi con người là phải hiểu và có ý thức về Lý Lẽ Riêng của mình. Lý Lẽ Riêng là mọi ý muốn do tự mỗi người nhận thức ra, và cho đó là có lợi nhất cho sự sống trước mắt và trong lâu dài của bản thân người đó.
Trong mỗi con người đều tồn tại hai ý muốn: một ý do B muốn, tức là do thói quen thường ngày muốn, và ý thứ hai do A muốn, tức là do những ham muốn từ trong vô thức của mỗi người. Các mong muốn sau được con người cảm nhận, qua các hiện tượng thôi thúc từ trong các cảm xúc nội tâm hay lương tâm của mỗi người.
Chúng ta biết rằng không có hành động nào của con người mà không có nguyên nhân, và không có nguyên nhân nào có ảnh hưởng bằng nguyên nhân từ trong các cảm xúc nội tâm của mỗi người.
Vì vậy, khi con người biết cách làm chủ được các cảm xúc, thì cũng sẽ biết cách làm chủ được ý muốn của mình. Nhưng thường con người ngày nay quen sống bằng ý muốn B hơn là ý muốn A, tức là sống bằng ý muốn phụ nhiều hơn là từ ý muốn chính. Nên đến một điều kiện phát triển nào đó, khi ý muốn chính bị chèn ép quá giới hạn, sẽ tình cờ nổi lên vượt qua ý muốn phụ để bộc lộ ra ngoài: thế là xã hội thấy có xuất hiện các bất ổn. Điều đó chứng tỏ, con người chưa làm chủ được các nhận thức tinh thần của mình.
Trong môi trường sống của Đạo Đức Hạnh Phúc của Môi Trường Hạnh Phúc V, con người được tạo điều kiện trang bị nhận thức Tinh Thần đầy đủ để có khả năng làm chủ được ý muốn A và ý muốn B của mình. “Ý muốn” được gọi là chủ động, khi ý muốn A và ý muốn B trở nên thống nhất. Điều đó chỉ có thể xảy ra, thông qua con đường rèn luyện, học tập, tranh luận, v.v..., hay con người phải được sống trong một môi trường thích hợp, như môi trường Đạo Đức Hạnh Phúc chẳng hạn.
Ngày xưa, trong môi trường phong kiến, ý muốn B là phải phục tòng vua chúa. Trong thời nô lệ, ý muốn B là phục tòng chủ nô. Trong thời đại ngày nay, ý muốn B phục tòng lợi nhuận, các lý thuyết khác nhau về sự sống, v.v...
Ngày xưa, con người dễ tìm ra thủ phạm áp đặt, lôi kéo ý muốn B của họ; ví dụ như nhà vua, các quan lại, các chủ nô, các chủ tư bản, giặc thực dân, v.v... Nhưng ngày nay, nguyên nhân lôi kéo ý muốn B của con người thường là vô hình, phức tạp, đa dạng, không tập trung, không cụ thể, v.v... hơn, nên cũng khó xác định được chúng hơn.
Bởi ngày nay, xã hội nào cũng kêu gọi phải bảo vệ nhân quyền, không ai có quyền sinh sát, hành hạ, đánh đập người khác, v.v...; thế nhưng, chúng vẫn xảy ra trong bóng tối hay công khai trước mọi người theo nghĩa, để bảo vệ một giá trị “nhân quyền” nào đó, v.v...
Điều đó gợi ý, con người có thể xác định nguyên nhân trên là do có sai lầm từ trong đời sống tinh thần của con người. Nơi đó, con người chưa chủ động xây dựng cuộc sống của mình theo ý muốn A, ý muốn của tạo hóa, mà chỉ nặng về ý muốn B của lý lẽ nhân tạo, để vô tình tạo nên những sai lầm chủ quan trong quan hệ với nhau.
Nguồn gốc của sự đề cao thái quá vai trò của lý lẽ nhân tạo, phần lớn là do bị ảnh hưởng từ sự phát triển kỳ diệu của nền văn minh vật chất của con người. Nó đã tác động hiệu quả vào thế giới tự nhiên, vì sự sống hạnh phúc và cũng vì sự phát triển khả năng nhận thức của con người. Phải chăng, từ sự thành công đó đã tạo cho con người thói quen có cá tính “nguyên tắc, máy móc”, để sẵn sàng áp đặt lên nhau các mệnh lệnh chủ quan từ mỗi phía? Để cuối cùng tất cả những thói quen đó, con người đã thành như nhập tâm, để từ đó có thể xây dựng nên những lý thuyết về đạo đức, về quan hệ con người với nhau, v.v...
Nhưng vì con người là loài sinh vật duy nhất trên trái đất, khác với tất cả mọi loài sinh vật khác hay khác với mọi vật chất khác, nên sự vô tình ngẫu nhiên của quá trình tiến hóa nhận thức ban đầu trên của con người, đã biến con người cùng với nền văn minh được tạo ra, thành như thủ phạm chính chống lại... một cách hiệu quả “các ước muốn được sống bình yên và hạnh phúc của chính con người”.
Khi Lý Lẽ Riêng sai lầm, thì tất yếu xây dựng Lý Lẽ Chung cũng sai làm theo; dẫn đến môi trường sống sai lầm; dẫn đến, một sự sai lầm lâu ngày được mọi người quen chấp nhận, sẽ thành như một thứ lẽ phải chuẩn mực của vô thức, có gốc là B, để mọi người phải tự giác sống theo. Nhưng do cảm nhận lẽ phải phải có gốc là A, nên bấy giờ con người đã ngộ nhận hay đồng hóa các “lẽ phải” có gốc B trên, là thuộc về các lẽ phải có nguồn gốc từ A nguyên thủy. Vậy là, dạng ý muốn A gốc B đã được hình thành.
Để từ đó trở đi, Lý Lẽ Riêng cũng mang đủ nội dung ý muốn A trùng với ý muốn B, tức là con người đang được sống thật với “lương tâm” của mình, không còn có sự sai trái nào cả; hay chỉ có những con người dị thường, mất trí, bọn vô lương, mất hết tính người, v.v... mới chống lại những lẽ phải “chuẩn mực và tốt đẹp” có gốc B giả A ấy (!?).
Vì thế, trong môi trường “đạo đức không hạnh phúc” đó, chúng ta dễ nhận thấy trong xã hội thường có một lớp người ưu tú, giỏi giang, thông minh, thành đạt hơn người, được chọn làm mẫu đạo đức chuẩn mực để mọi người phải noi gương sống theo.
Tức là ý muốn A giờ đây cũng phải bị áp đặt phát triển theo mẫu nhân tạo, cũng giống như ý muốn B đã từ lâu phải theo mẫu. Và để chứng minh thêm tính chân lý khách quan của chúng, con người đã chứng minh tiểu sử hình thành nên các “chuẩn A” của các thành phần ưu tú kia. Sự chứng minh như thế rõ ràng không sai, nhưng nó đã trở thành sai vì đó không phải là sự chứng minh về sự hình thành các “chuẩn A” của các hoàn cảnh sống khác, mà mỗi hoàn cảnh như một thực tế tồn tại khách quan, ngoài ý muốn con người.
Chính vì lẽ đó, sự chứng minh A kia, thực tế, không bao giờ có thể đi vào tất cả lòng người được. Vì A của mỗi người là mỗi hoàn cảnh hình thành khác nhau, và nó luôn nằm ngoài sự điều chỉnh chủ quan và phản tự nhiên của con người.
Hay nói cách khác, trong bất kỳ một hoàn cảnh xã hội nhất định nào, cũng tạo ra được những con người có A tốt nhất, có tính đại diện nhất, tiêu chuẩn nhất, cho môi trường chung đó. Nhưng nó chỉ có giá trị để tạo sự tác động tối ưu cho tổng thể đó, chứ không phải để đồng hóa mọi A trở thành rập khuôn giống nhau theo mẫu “A chuẩn” đó.
Nói cách khác, mỗi người đều có hoàn cảnh A chi tiết khác nhau, con người không thể lấy A này làm chuẩn để bắt A khác phải rập khuôn “nháy” theo. Điều đó sẽ phản lại tự nhiên, phản lại thực tế khách quan của sự phân bố con người trên địa bàn dân cư, hay trong tổng qui trình phân công sản xuất đa dạng tự nhiên của mỗi cộng đồng xã hội. A này có thể tác động đến A khác, nhưng muốn rập khuôn chúng với nhau thì không bao giờ được vậy!
Ngoài ra, do bản chất của A luôn là tình người, và trong khi thực tế lịch sử phát triển loài người là sự tranh giành quyền lợi bằng bạo lực, hay mọi trật tự sinh tồn cộng đồng thường đều được bảo vệ bằng bạo lực; nên mọi A (gốc B) phát triển tích cực lên đều có dạng nhận thức, mang tính diệt bất công và bạo lực trong các quan hệ con người với nhau.
Biết rằng bạo lực bất công dễ bị tiêu diệt bởi một bạo lực công bằng nghịch chiều lại. Vì thế, khi một bạo lực bất công đã bị tiêu diệt và biến mất; thì cái A bạo lực dẹp bất công khi nào nay vẫn còn, thường sẽ tiếp tục tồn tại để chuyển thành nội dung: xây dựng đời sống công bằng, tự do và hạnh phúc tiếp sau cho con người cũng bằng bạo lực hay bằng sự chủ quan của cái một thời được gọi là sự khách quan.
Biết rằng bản chất của A nguyên thủy là không bạo lực, là bình yên, là nội dung ngôn ngữ mạch lạc và khoa học. Do đó, cái A bạo lực kia dù có mục đích rất tốt đẹp, nhưng khi đã sử dụng bạo lực  (sai nguyên tắc) thì cũng tức là đã vô tình mâu thuẫn và chống lại A nguyên thủy: nên cũng sẽ dần trở thành một hình thức cản trở khác đối với sự sống hạnh phúc của con người và xã hội.
Do bản chất của Lý Lẽ Chung được cấu tạo như trên; nên thay vì nó được hình thành nhằm tạo điều kiện cho các Lý Lẽ Riêng được phát triển thuận lợi và hợp lý, thì nó lại trở thành như một lực mới chống lại chúng một cách vô tình; và nó đã chống ngay từ trong môi trường A của con người.
Tất cả chỉ vì, từ lâu con người chưa có đủ cơ sở nhận thức về A, nên chỉ biết A thông qua sự hình thành ngẫu nhiên bởi hoàn cảnh và điều kiện môi trường sống khách quan; để rồi, vô tình lạm dụng A của người này làm phương tiện để chống lại A của người khác.
Mạt khác, bản chất A cũng là tự do, độc lập cá nhân. Do đó, khi con người vô tình chỉ biết đề cao sự độc lập, tự do cá nhân một chiều, thì cũng là lúc con người đang chống lại A khi nào không hay; vì mọi A cũng đều cần có B để làm điểm tựa nhận thức quân bình cho nó.
Con đường sống theo A chỉ có thể là sự nhận thức về A. Nó cũng có nghĩa là con người phải có nhận thức toàn diện về môi trường sống, sao cho tất cả đều tồn tại và phát triển một cách cân đối, đúng với bản chất sinh tồn mà mỗi vị trí của nó phải có.
Từ các lý giải trên, chúng ta suy ra Lý Lẽ Riêng của mỗi người là do A thúc đẩy, do môi trường sống thúc đẩy và do Lý Lẽ Chung thúc đẩy tại B. Lý Lẽ Riêng về nội dung tinh thần chỉ đúng, khi một trong các yếu tố thúc đẩy trên phải đúng, để làm phương tiện cho các yếu tố còn lại phải đúng theo.
Các yếu tố trên chỉ trở nên đúng, khi con người có thể tìm ra một ngôn ngữ lý luận, đủ khả năng minh chứng và phát hiện ra vai trò tác động của A đối với B của mỗi người nói riêng và của mọi người nói chung, là thế nào. Từ đó lấy làm phương tiện để lý giải môi trường sống chung cũng như riêng của mỗi người. Sau cùng, chúng được đúc kết thành một Lý Lẽ Chung để mọi người tham khảo và tranh luận: sao cho ý muốn A và B của mỗi người được phát triển độc lập, thống nhất và tự do trong sự hòa hợp cân đối với môi trường chung.
Nếu vậy, ngôn ngữ dùng để phát hiện vai trò của A đối với B, đến đây xem như đã có; đó là toàn bộ các nội dung đang được trình bày trong tác phẩm được gọi dưới danh nghĩa là “Ngôn Ngữ A”. Vấn đề còn lại lúc này là ưu tiên lý giải mô hình Lý Lẽ Chung Hạnh Phúc, hay Lý Lẽ Chung có nội dung tinh thần với vật chất tiềm ẩn của Lẽ Phải Hạnh Phúc trong Môi Trường Hạnh Phúc V, là gì?
7. MÔ HÌNH LÝ LẼ CHUNG HẠNH PHÚC
Bản chất sự sống của con người, suy cho cùng, là sự ham muốn. Sự ham muốn của con người được thể hiện trước tiên vào trong Lý Lẽ Riêng, và Lý Lẽ Riêng bị chi phối bởi A và Lý Lẽ Chung (môi trường sống) để tồn tại và phát triển.
Theo dẫn chứng tại các chương, A gồm hai phần: phần bẩm sinh và phần nhân tạo. Vì ngày nay, phần bẩm sinh chưa được ý thức đầy đủ, nên con người chú trọng dùng phần nhân tạo của A hơn. Lý lẽ nhân tạo của A lại có nguồn gốc chính từ môi trường sống bên ngoài; mà môi trường sống bên ngoài giờ đây được hiểu dưới hình thức đại diện là Lý Lẽ Chung.
Theo cách hiểu thông thường, Lý Lẽ Chung lại là sản phẩm của Lý Lẽ Riêng, dưới cái nghĩa của một tổng hợp thống nhất của mọi Lý Lẽ Riêng. Như vậy, cuối cùng Lý Lẽ Chung trở thành yếu tố tác động chính vào sự sống hạnh phúc của con người văn minh thời đại. Mà chúng ta cũng biết, đó là sự sống còn thiếu chủ động về giá trị tinh thần, hay chưa công nhận về vai trò quyết định của A trong sự sống của con người.
Nhìn chung, con người thời đại quen đặt trọng tâm nhận thức vào các Lý Lẽ Chung và thiếu chú ý về A hay về các Lý Lẽ Riêng; dẫn đến, trong điều kiện sống hòa bình, ổn định và phát triển, con người vẫn chưa thể định hình thành công một mô hình sống hạnh phúc lý tưởng và thống nhất cho mọi người, là như thế nào.
Nếu gọi giá trị sống hạnh phúc lý tưởng cho toàn xã hội, là một xã hội không còn có tội phạm, không còn có tử hình, giam cầm khổ sở, không còn có tội ác, không còn có bất công, áp đặt bằng bạo lực, v.v..., và mọi người đều được sống bình yên, tự do, bình đẳng, bác ái và hạnh phúc với nhau; thì đó là mục tiêu chưa đạt của các mô hình Lý Lẽ Chung đã và đang có.
Do đó, vấn đề là làm cách nào điều chỉnh được Lý Lẽ Chung, để sao cho con người từng bước nhận thức được sự tất yếu phải đặt trọng tâm nhận thức về A là chính, chứ không phải Lý Lẽ Chung là chính hay B là chính, trong mục đích đi tìm sự hiệu quả tối ưu cho sự sống con người và xã hội.
Lịch sử phát triển loài người đã chứng minh: mức sống hình thức của con người ngày càng được khá dần lên, đời sống vật chất được sung sướng hơn, các hình thức chiến tranh tàn sát lẫn nhau vì các lý do: bảo vệ chân lý, bảo vệ quyền sống tự do và hạnh phúc cho con người, bảo vệ nhân quyền, v.v..., cũng đang giảm dần, v.v...
Tuy nhiên, sự tăng dần mức sống về hình thức của con người bị đánh đổi bằng sự giảm dần về mức sống nội tâm, tình cảm, tâm hồn, v.v... hay nói chung sự sút giảm về đời sống tinh thần, sẽ lại là một khó khăn mới cho sự sống con người.
Nếu xét vấn đề theo cách hiểu: xã hội là “vật chất hay hình thức”, và nội tâm là “tinh thần hay nội dung”; thì trong tinh thần có mầm vật chất, trong vật chất có mầm tinh thần. Tất cả liên kết lại với nhau thành một khối thống nhất, vừa đối nghịch nhau vừa hợp sức cho nhau trong một tổng trị cân đối, ổn định và phát triển. Đó là một nguyên lý nhận thức chung về thế giới tồn tại.
Áp dụng nguyên lý đó vào nội dung trên chúng ta có: khi tinh thần bị yếu dần, thì nó sẽ thể hiện tập trung sự suy yếu đó tại mầm tinh thần có trong hình thức. Vậy, khi con người chấm dứt được hoàn toàn tội ác và bạo lực tại hình thức, thì mầm tinh thần của hình thức sẽ được phục hồi phát triển tích cực trở lại, và tất yếu sẽ dẫn đến sự phát triển tích cực toàn diện của môi trường tinh thần hay nội tâm của mỗi con người đang là thành viên trong xã hội đó.
Hoặc khi mầm vật chất trong tinh thần đã được phát triển tốt toàn diện, thì có nghĩa, môi trường xã hội đã có để phát triển một cách tích cực và hoàn thiện tương ứng.
Nguyên tắc trên có thể được tóm tắt: khi yếu tố mầm được giải quyết triệt để tại môi trường bên này, thì cái tổng thể chính bên kia cũng sẽ thay đổi về chất một cách tất yếu.
Vậy, nếu mầm xã hội trong tinh thần đã được hoàn thiện, dưới hình thức các Lý Lẽ Chung Hạnh Phúc, thì nó sẽ là nhân tố tích cực tác động lên môi trường sống ngoài xã hội của cá nhân đó, thành không còn có tội ác, không còn có bất công, không còn có chiến tranh và đau khổ, v.v... một cách tương ứng.
Nếu như thế, Lý Lẽ Chung Hạnh Phúc bao gồm những nội dung gì để khi ứng dụng vào thực tế, nó sẽ phát huy tính hiệu quả của nó?
Trong đời sống xã hội, Lý Lẽ Chung được định nghĩa như tiếng nói đại diện của các dư luận xã hội, hay các thói quen nhận thức chung về sự sống của số đông người trong một cộng đồng nhất định.
Ví dụ, ngày xưa dưới chế độ phong kiến, con người cho rằng: vua là con trời, mọi người sẵn sàng sống chết vô điều kiện vì nhà vua và có thể xem đó như là một diễm phúc cho người “bị nạn”! -Tất yếu và bao giờ, trong cái cộng đồng chung đó cũng có một số người không đồng tình với các quan điểm kia, nhưng thường họ vẫn phải hòa vào dòng Lý Lẽ Chung phổ biến đó, một cách “tự giác” vì... bất lực.
Trong xã hội nô lệ cũng tương tự, người nô lệ xem người chủ như một giới người thượng đẳng mà họ đương nhiên phải có trách nhiệm phục dịch hết mình cho chủ nô đó. Người ta gọi đó là “đạo đức hạnh phúc” của kẻ nô lệ, hay đó là Lý Lẽ Chung của môi trường sống lúc bấy giờ.
Trong xã hội thực dân, thì người bản xứ là chậm tiến, thấp kém nên sự phục dịch, vâng lệnh những người văn minh đi khai hóa là phải lẽ vậy: và đó là “đạo đức hạnh phúc” dành cho những người dân thuộc địa; và hậu quả là số người oán trách các Lý Lẽ Chung kia ngày càng tăng cao!
Trong xã hội ngày nay, người có tiền, người chủ, v.v... thường được mọi người kính trọng hơn và họ cũng dễ được xem như là một chuẩn mực đáng để mọi người noi gương. Nếu gọi Lý Lẽ Chung lúc này là “đề cao đồng tiền”, thì tức là các giá trị “quan hệ con người” sẽ là phương tiện để đạt đến các “Lý Lẽ Chung Tiền” đó. Vì vậy, xã hội dễ bị đổ về quan hệ tình người, dẫn đến sự đau khổ vô hình về tinh thần, tội phạm gia tăng, con người ngày càng có nhiều mâu thuẫn đối kháng với nhau, v.v...; trong đó ắt sẽ có những tội nhân không bị oan ức về tội trạng, nhưng bị oan ức về môi trường đã biến con người thành tội trạng!
Như vậy, vấn đề của Lý Lẽ Chung Hạnh Phúc là tạo dựng một mô hình nhận thức về con người, xã hội và sự sống theo một cách mới sao cho mọi nguyên nhân có thể biến con người trở thành “tội nhân oan ức”, v.v... phải bị triệt tiêu. “Nhơn chi sơ tính bổn thiện”, cái ác vốn không phải tính người mà vì Lý Lẽ Chung gây ra tất cả. Sửa được Lý Lẽ Chung, thì tin rằng con người sẽ có được tất cả CÁI THIÊN muốn tìm vậy.
Lý Lẽ Chung trước nay do vua ban là chính, do chủ nô là chính, do giặc thực dân là chính, do người giàu có là chính, do một nhóm người được gọi là ưu tú là chính, v.v... hay do môi trường tác động ngẫu nhiên mà thành.
Vậy, con đường khắc phục phải là: “Lý Lẽ Chung Hạnh Phúc phải do mọi con người đang sống chung thành một cộng đồng với nhau trực tiếp xây dựng nên, thì sự sống mới thật sự được công bằng và hạnh phúc”.
Vì sao các nhà lý luận trong các ngành khoa học xã hội hiện đại, không giao cho mọi người dân trực tiếp xây dựng Lý Lẽ Chung, từ lâu nay? Có lẽ, vì đa số người dân có điều kiện hoàn cảnh sống khó khăn và cách biệt nhiều so với mức sống của thiểu số người hạng trên đang có, nên họ cho rằng: “Nếu để mọi người cùng có quyền trực tiếp xây Lý Lẽ Chung, thì chẳng khác nào càng tạo thêm sự mâu thuẫn và bế tắc cho môi trường sống cộng đồng nói chung”.
Vì lẽ đó, bao giờ và trong xã hội nào, con người cũng có cách ngăn cản số người “hạng dưới” kia mà kêu gọi họ hãy ủy quyền các ý kiến cho các vị “dân cử”, người sẽ thay họ xây dựng các “Lý Lẽ Chuẩn”. Nhưng như đã chứng minh, con người chỉ có thể đại diện cho các Lý Lẽ Chung, không ai có đủ khả năng và có đủ “quyền” để đại diện cho các Lý Lẽ Riêng bao giờ.Vậy, các “Lý Lẽ Chuẩn” kia là gì?
Vấn đề trên có nghĩa: khi mỗi xã hội chỉ có số ít người được lấy Lý Lẽ Riêng để xây dựng nên các “Lý Lẽ chuẩn” cho toàn xã hội, để rồi ngộ nhận đó là Lý Lẽ Chung đại diện cho mọi Lý Lẽ Riêng; thì điều đó ắt là một sai lầm vậy. Do đó, với cấu trúc của một Lý Lẽ Chung như vậy, thì chắc chắn và bao giờ cũng sẽ gây thành những bất đồng nhất định. Đó phải chăng, chính là mầm móng gây ra mọi biến cố tiêu cực trong đời sống con người và xã hội?
Chúng ta biết rằng, Lý Lẽ Riêng là đại diện cho các nhu cầu sống cơ bản của mỗi con người. Nhưng khi nó bị mâu thuẫn với Lý Lẽ Chung, thì có nghĩa nó sẽ bị qui thành “có tội” trước pháp luật; hay suy ra nhu cầu sống cơ bản của con người là có tội chăng?
Trong môi trường mô hình xã hội của Lý Lẽ Chung cũ, con người hay có thói quen dồn hết nguyên nhân tội trạng vào cho tội nhân, mà không công nhận ra các nhận thức sai lầm của xã hội, của con người về cách tạo ra Lý Lẽ Chung kia mới là nguyên nhân cơ bản nhất!
Con người hay đòi nghiêm trị nặng nhất, tử hình! Nhưng có nghiêm trị nào bằng “tru di tam tộc”, bằng những cuộc tàn sát tập thể của thời đệ nhị thế chiến, bằng những đòn tra khảo thời chiến tranh thực dân, v.v... vậy mà, cuối cùng tất cả các Lý Lẽ Chung làm nên những bản án nghiêm trị đó, đã lần lượt bị sụp đổ!
Điều đó cho thấy vấn đề quan hệ con người không nằm trong sự trừng trị bạo lực nặng hay nhẹ, mà là đúng hay sai trong nhận thức về quan hệ con người với nhau. Nó không nằm trong phạm trù “phải làm cho sợ để không làm sai”, mà là phạm trù “phải biết chỉ ra cái đúng thật, thì sẽ không còn ai muốn làm sai”!
Thực tế các xã hội tiên tiến cũng đã cho thấy không thiếu các loại bản án, nhưng tội phạm, sự bất ổn xã hội, sự bế tắc niềm tin nơi con người, v.v... như vẫn ngày càng tăng hơn. Như vậy tất cả không tùy thuộc vào số lượng các lý lẽ nghiêm trị, mà tùy thuộc vào các lý lẽ nghiêm trị đó được kết cấu như thế nào, có bản chất phục vụ lợi ích thực tế cho ai, cho vấn đề như thế nào?
8. CON ĐƯỜNG Ý KIẾN TOÀN DÂN
Lịch sử hình thành và phát triển xã hội loài người là lịch sử của sự tranh giành quyền lợi bằng bạo lực hay bằng sức mạnh vật chất; thiếu các điều kiện đó, con người sẽ khó giữ được sự sống của mình.
Sức mạnh bạo lực của mỗi xã hội cuối cùng sẽ được tập trung về một mô hình tổ chức mang tên “Bộ Máy Chính Quyền”; nó là đại diện hợp pháp của toàn sức mạnh đó. Mỗi xã hội đều có một bộ máy tương tự như trên để duy trì trật tự xã hội, và để bảo vệ quyền lợi của mọi người theo một Lý Lẽ Chung được qui định như thế nào đó.
Thực tế cho thấy, do số người của bộ máy chỉ có thể là thiểu số lại có quyền đại diện và quyết định quyền lợi của gần như tất cả, về mọi mặt nói chung; nên bao giờ bộ máy đó vẫn thường có biểu hiện sự bất cập, hay sự kém hiệu quả trong trách nhiệm đảm đương của nó.
Phải chăng đã đến lúc, con đường phát triển của xã hội loài người phải được dựa trên sự phát triển của một qui mô tổ chức rộng lớn hơn, thì mọi sự vận động mới có thể nhịp nhàng và đem lại hiệu quả cao lý tưởng cho mọi con người hay cho toàn xã hội.
Muốn được vậy, bộ máy duy trì trật tự và bảo vệ quyền lợi của xã hội phải thuộc về mọi người, không còn thuộc về thiểu số người kia nữa. Và mọi quyền lợi của tất cả mọi người đều được dễ dàng thể hiện vào trong bộ máy mới đó, như một điều kiện tự nhiên và tất yếu. Điều đó chỉ trở thành hiện thực, khi mọi người đều được là thành viên điều khiển trực tiếp bộ máy đó. Một phương thức tổ chức hội đủ các điều kiện ưu việt như trên, phải chăng chỉ có thể là một mô hình tổ chức của “BỘ MÁY NHẬN THỨC”.
Dân gian thường nói, “phép vua thua lệ làng”. Phép vua là Lý Lẽ Chung do bộ máy chính quyền của vua xây dựng, lệ làng là Lý Lẽ Chung của người dân tự xây dựng lấy. Lệ làng thường hợp với sự thật, hợp với lòng dân hơn, còn phép vua thì hay xa thực tế và dễ bị nghịch với lòng dân.
Trong thời nào, lệ làng và phép vua cũng khó lòng thống nhất hết với nhau; vì có cái dân cần thì không thấy phép vua làm, cái dân không cần thì phép vua lại bắt dân phải thực hiện. Sự mâu thuẫn “phép” và “lệ” trên, phải chăng chỉ có thể thống nhất bằng “Bộ Máy Nhận Thức” (BMNT) như ở trên đã đề xuất? Vậy, BMNT là gì?
BMNT, sự thật, cũng chỉ là một khái niệm trừu tượng và vô hình. Tuy nhiên, nếu con người biết khéo dụng, thì nó sẽ trở thành một động lực hay một nhân tố quyết định, để xây dựng thành công một môi trường sống hạnh phúc cho con người và xã hội. Yếu tố quyết định để xây dựng thành công một BMNT tốt đẹp cho toàn xã hội, là con người cần có một phương thức lý giải sao cho có thể đúc kết được toàn bộ các nguyện vọng của mọi con người trong xã hội lại, về thành một nội dung thống nhất và công khai, trên nguyên tắc tự giác, bình đẳng, tôn trọng và không gây áp đặt bằng bạo lực giữa mọi người với nhau.
Giả thiết, chúng ta gọi Ngôn Ngữ A là một phương thức lý giải có thể đáp ứng tốt các yêu cầu trên. Ngôn ngữ A có nhiệm vụ sao cho mọi nguyện vọng riêng bất kỳ, mọi Lý Lẽ Riêng bất kỳ, đều phải được tập hợp chung vào trong BMNT của cộng đồng.
Mọi người có nhận thức, có khả năng thông tin lý lẽ với người khác, thì tất yếu là thành viên của BMNT. BMNT là một bộ máy mà về nội dung, nó sẽ không bị một sự nhân danh nào để có thể ra quyền áp đặt với nó; vì nó chỉ tùy thuộc vào sự kết luận chung của mọi người, thông qua các hình thức diễn đàn tranh luận nhất định. Về hình thức, người có nhận thức gần với sự kết luận chung nào, thì sẽ trở thành một cách tự nhiên người có trách nhiệm cao nhất, để thúc đẩy thực hiện kết luận đó trong thực tế. Chúng ta sẽ có người lo duy trì hình thức bộ máy, người lo thực hiện nội dung lẻ và người lo thực hiện nội dung chung của bộ máy.
Đối với Bộ Máy Chính Quyền, người đứng đầu bộ máy được bầu chọn dựa theo một kết quả tranh cử nào đó, hay dựa trên một sự sắp xếp chủ quan của một uy quyền nào đó. Trong khi ở Bộ Máy Nhận Thức, vấn đề chính sẽ không chỉ tùy thuộc vào sự bầu chọn quyền lực cho cá nhân, mà chú trọng đặc biệt đến quyền của mọi người hay của diễn đàn, nên vấn đề chọn người “MÔI GIỚI KIỂM TRA” sẽ là vấn đề quyết định của BMNT (xem phần sau).
Khả năng thực tế của Bộ Máy Chính Quyền thường khó được mọi người thấu hiểu thông suốt, hay có thể lý giải nó một cách hiệu quả; mà chỉ có thể xét đoán nó bằng những cảm tính tương đối nào đó, về các yếu tố cần có của người muốn được xét chọn vào một cương vị nào đó của bộ máy.
Khả năng thực tế của Bộ Máy Nhận Thức được chứng minh công khai bằng ngôn ngữ A tại các diễn đàn; để từ đó qui trách nhiệm theo từng cấp, thông qua sự bầu chọn người tại các diễn đàn, sao cho bao giờ cũng có một người chịu trách nhiệm chính về một công việc nào đó, v.v... từ nhỏ đến lớn dần.
Sự hình thành Bộ Máy Chính Quyền phải dựa trên một uy quyền bạo lực nào đó của thiểu số áp đặt, thì mới duy trì được tổ chức, thiếu nó bộ máy sẽ vô nghĩa. Sự hình thành Bộ Máy Nhận Thức là dựa trên sự phát triển tự nhiên của “lệ làng”, của dư luận hình thành tự nhiên trong xã hội, hay cũng là dựa trên quyền lực khách quan tự nhiên; nên nó chỉ vô nghĩa, khi đời sống xã hội văn minh không còn có dư luận nữa vậy (?).
Vì vậy, sự lập và giữ Bộ Máy Chính Quyền bao giờ cũng phải tốn nhiều công sức để chống lại các lực khách quan tự nhiên, và kết quả thực tế thu được bao giờ cũng không hoàn chỉnh. Sự lập và giữ Bộ Máy Nhận Thức thì đơn giản hơn nhiều, vì chỉ thông qua sự sắp xếp lại trật tự dư luận tự nhiên là chính, thì sẽ có được ngay một tổ chức đơn giản và hiệu quả hơn bộ máy trên.
Vậy là, sự sắp xếp lại trật tự dư luận xã hội là yếu tố quyết định cho sự thành bại của mô hình Bộ Máy Nhận Thức. Điều đó liên quan đến sự đánh giá về ngôn ngữ A, là ngôn ngữ chịu trách nhiệm chính cho sự ra đời của BMNT. Vậy ngôn ngữ A là gì?
Ngôn ngữ A, trước hết, là một phương thức lập luận, đơn giản, khoa học và không ngoài khả năng hiểu biết cơ bản của mọi người bình thường. Nó bao gồm các nội dung về “sự sống và hạnh phúc” của mọi con người cụ thể.
Về phương pháp luận, ngôn ngữ A cũng không đòi hỏi người nhận thức phải theo một phương pháp cố định nào, miễn sao phương pháp nào có lợi cho sự nhận thức và sự sống của mỗi người, không gây hại đến người khác, là được.
Tóm lại, ngôn ngữ A là một phương pháp luận thông dụng đối với mọi khả năng nhận thức bình thường của mọi người, khi nó được dùng để tranh luận về sự sống đời thường của mỗi con người đó. Tuy nhiên, vai trò hữu ích của nó sẽ được biểu hiện thông qua khả năng tổng hợp được mọi ý kiến khác nhau trên, thành một ý kiến thống nhất, để mọi người lấy đó làm đối tượng tham khảo và quyết định chọn lựa.
Có nghĩa là, mọi người đều có thể phát triển trong Bộ Máy Nhận Thức theo cách riêng của mình; tuy nhiên, từ ngôn ngữ A, mọi người sẽ tự giác thống nhất với nhau tại Lý Lẽ Chung A. Lý Lẽ Chung A sẽ giúp con người thuận lợi hình thành dần Cảm Xúc Chung A trong quan hệ. Cảm Xúc Chung A là một cảm xúc, được hình thành bằng sự thống nhất các tranh luận về lý và tình qua các vấn đề cần lý giải, mà kết quả được tính trên tổng số tuyệt đối, hay tối thiểu trên đa số tuyệt đối của số người hiện diện đồng ý, trong mô hình tổ chức của ngôn ngữ A (hay BMNT).
Sự phát triển của Cảm Xúc Chung A sẽ tùy thuộc chính vào ngôn ngữ A, có đào tạo được nhiều người có ý thức không ngừng rèn luyện Cảm Xúc Chung A bằng quá trình tự trau dồi các nhận thức của mình hay không. Kết quả đào tạo càng cao, thì tỉ số thống nhất ý kiến tích cực càng cao trong bàn luận giải quyết các vấn đề chung cũng như riêng, về các quan hệ đời sống giữa mọi người với nhau nói chung.
Như vậy, ngôn ngữ A là cánh cửa tạo điều kiện không giới hạn, để mọi người thuận lợi hợp lực lại thành một sức sống thống nhất. Nếu tạo hóa sinh loài người ra để thống nhất về mục đích sống, thì ngôn ngữ A sẽ có cơ may thành công. Nếu ngược lại, bản chất loài người là tiêu diệt nhau, thì ngôn ngữ A sẽ phải thất bại như một hướng đi bị phá sản?
Nhưng tạo hóa sinh con người ra đều muốn sống và hạnh phúc. Vậy bản chất con người là hòa bình và hợp nhất, chứ không là sự triệt tiêu lẫn nhau; nên ngôn ngữ A sẽ có nhiều hi vọng được khai sinh và phát triển.
Vấn đề còn lại là giới thiệu ngôn ngữ A một cách rộng rãi trong thực tế.
Mục đích của ngôn ngữ A là hình thành Bộ Máy Nhận Thức trong quan hệ con người với nhau. Có thể nó tương tự như Bộ Giáo Dục mà các xã hội đang có hiện nay. Nhưng Bộ Giáo Dục ngày nay mới chỉ chủ động trước Bộ Máy Chính Quyền và trước xã hội về mặt phát triển khoa học Vật Chất, nó chưa chủ động được về mặt khoa học Tinh Thần. Vậy từ Bộ Máy Nhận Thức, hi vọng con người sẽ làm chủ trên cả hai lĩnh vực khoa học trên, nhằm đem lại những lợi ích thiết thực và hiệu quả hơn cho sự sống con người.
Như chúng ta đã biết, không có một Bộ Máy Chính Quyền nào có thể ra lệnh người dân phải sản xuất thành công tiến bộ khoa học kỹ thuật này, phải hủy bỏ trình độ phát triển kiến thức về khoa học kỹ thuật kia, v.v... mà tất cả như tồn tại và phát triển theo một trình tự vận động độc lập của riêng nó. Khả năng tối đa của chính quyền chỉ có thể, tạo điều kiện hoặc cản trở khoa học phát triển trong một chừng mực nhất định.
Cùng một ý tương tự, về mặt quan hệ con người sẽ đến một lúc, Bộ Máy Chính Quyền sẽ không còn có thể can thiệp vào các quan hệ xã hội của mọi người dân nữa, khi mà họ đã chủ động được các lý lẽ vững chắc để biện minh cho các hoạt động tồn tại của mình. Và những can thiệp kia sẽ phải hòa nhập dần vào bộ máy mới, như mọi quan hệ bình đẳng khác trước cộng đồng. Như thực tế đã từng chứng minh: phép vua thường vẫn phải bị thua và theo đuổi lệ làng theo thời gian!
Vậy theo ngôn ngữ A, sự quan hệ giữa con người với nhau là một khoa học chính xác, mà con người không đơn giản có thể tùy ý định ra các lý lẽ, các khái niệm lẽ phải, các mô hình quan hệ đạo đức, v.v... theo sở thích hay dựa trên một uy quyền áp đặt chủ quan nào đó. Những áp đặt chủ quan như thế ắt sẽ dẫn con đến những hậu quả ngoài ý muốn vậy!
Khi trong sự sống, con người còn cảm thấy chưa an tâm, chưa hài lòng về một quan hệ nào đó, thì điều đó ắt là, có nguồn gốc xuất xứ từ những quan hệ phi khoa học giữa con người với nhau vậy!
Lưu ý, đến đây chúng ta có thể nói, Phức 12 và Đơn 13 đều dùng chung một phương tiện ngôn ngữ để hình thành và phát triển, đó là NGÔN NGỮ A. Hay, Phức 12 và Đơn 13 là các hình thức biểu hiện cụ thể của ngôn ngữ A, mà thực tế chúng đã và đang được mở đầu giới thiệu chung qua các nội dung của tác phẩm này.
9. NGÔN NGỮ A NHẬP MÔN
Mọi con người sinh ra và lớn lên đều có một thế giới nội tâm riêng biệt. Nó là nguồn lực chính để tạo cho mỗi con người có một chất lượng sống nhất định như: hạnh phúc hay đau khổ, thành đạt hay thất bại, thiện hay ác, hiền lành hay hung dữ, từ tốn hay nóng nảy, v.v...
Thế giới nội tâm đó, chúng ta còn gọi rộng hơn là Tinh Thần. Mỗi Tinh Thần con người đều vận động dưới sự chi phối của một “Khái Niệm”, mang tên “CÕI VÔ THỨC”. Cõi Vô Thức gồm ba chiều: chiều Không Gian, chiều Thời Gian và chiều Loài Người:


CÕI VÔ THỨC

Mỗi con người có một thế giới nội tâm, hay thế giới nhận thức, hay thế giới Tinh Thần riêng; tất cả chúng được tạo nên bởi một kiểu nhận thức nào đó, từ quá trình trưởng thành của mỗi con người. Ví dụ, kiểu nhận thức của mô hình CÁNH DIỀU sau đây:

MÔ HÌNH CÁNH DIỀU(H.3)

Chú thích: Tứ giác A2B1 tóm tắt nguyên tắc vận động tinh thần trong một não người. Trong đó:
        A: tâm vô thức        B: tâm ý thức        1: trạm chuyển tiếp ra môi trường vật chất bên ngoài        2: vùng phản chiếu của trạm 1        C: cơ thể con người
Nếu áp dụng mô hình trên để định nghĩa về sự tồn tại của một tổng thể nhận thức của một con người (xem phần III, chương 10), thì chúng ta có thể xác định được cách sống hay tọa độ tồn tại của cá nhân người đó trong Cõi Vô Thức trên.
    Tại (H.2), chúng ta đặt:     Loài người = x                        Không gian = y                        Thời gian = z
(H.2) được lý giải như sau: mỗi x là đại diện cho cách sống của mỗi con người; mỗi y là đại diện cho các mục đích và nhiệm vụ mà mỗi x phải đạt được trong cuộc sống thực tế; và mỗi z là đại diện cho những mục đích ước mơ mà mỗi x gần như không bao giờ có thể đạt đến sự tuyệt đối trong đời
Từ ba yếu tố x, y, z, mỗi con người sẽ có thể xác định cho mình một tọa độ S trong Cõi Vô Thức.
Thông thường, mỗi người có một tọa độ S cố định trong suốt đời người. Nếu chúng ta gọi vùng (O, x, y, z) hay (+, +, +) là (+)*, thì vùng (–, –, –) hay (O, –x, –y, –z) là (–)*. Nếu gọi vùng (+)* là đại diện cho vùng của Lẽ Phải T, thì vùng (–)* sẽ là đại diện cho vùng Lẽ Phải V.
Đặc điểm của mỗi vùng (–)* và (+)* như sau: vùng (–)* bao gồm những người bảo thủ, hẹp hòi, luôn đề cao quyền lợi ích kỷ của phạm vi cá nhân mình là nhất, v.v...; vùng (+)* bao gồm những người linh hoạt, hiểu biết, công bằng, luôn đề cao quan điểm quyền lợi sống của riêng và chung một cách hợp lý và thống nhất, trong một hệ thống trật tự, bình đẳng, v.v... là trên hết.
Ngoài hai vùng (–)* và (+)* chính trên, còn sáu vùng (+, +, –), (+, –, –), v.v... còn lại chúng lý giải cách sống tốt và tích cực nhiều hay ít, thích ứng với tùy người, so với hai vùng ác và thiện chính kể trên.
Nếu gọi vùng (+)* là vùng I và vùng (–)* là vùng II; thì người trong vùng I, do khả năng linh hoạt, nên dù ở tọa độ S nào cũng đều có quan điểm nhìn toàn diện tại tâm O hay có quan điểm sống khách quan.
Ngược lại, người ở vùng II, do bản chất quan điểm sống là bảo thủ, chủ quan, hẹp hòi, thiển cận, v.v..., nên họ bao giờ cũng xem vị trí S của mình như là một “tâm O”, là tâm điểm của vũ trụ vậy. Đó là những người có cái tôi, cái bản ngã, cái chủ nghĩa cá nhân, tính hẹp hòi, độc đoán, v.v... to “bằng trời”. Từ đó, họ muốn vạn vật đều chuyển động theo tâm S của mình; hay nó có nghĩa mọi cái đều có thể thay đổi, trừ tâm S của họ.
Nhưng sự thật, tuổi thọ mọi con người đều hữu hạn; do đó, vạn vật còn tồn tại, vận động và phát triển đến ngày nay, không phải là theo một tâm S nào, mà tất cả chỉ vận động và biến đổi theo một tâm O thống nhất và vĩnh cữu được tạo ra bởi một tạo hóa duy nhất mà thôi.
Nguyên nhân sai lầm trên, phải chăng vì sự tiến hóa từ giai đoạn não động vật sang não người, đã tạo cho con người có khả năng ý thức và phát triển tư duy sáng tạo của mình, để từ đó hình thành nơi con người căn bệnh chủ quan “chỉ thấy và chỉ biết đề cao sức mạnh độc tôn và chủ quan của thế giới CON NGƯỜI”. Nhưng tiếc thay! Ngoài thế giới CON NGƯỜI còn có thế giới của TỰ NHIÊN hay của TẠO HÓA, đó mới thật sự là yếu tố cuối cùng để quyết định cho tất cả!
Vậy, khi nào con người còn cần ăn, uống, hít thở, ánh nắng mặt trời, còn bị bệnh tật, thiên tai, dịch bệnh, còn chưa hiểu bằng cách nào vật chất được sinh ra, sinh ra để làm gì, có lợi cho ai, và vì sao phải cần sinh ra con người, mà sau đó con người phải mất nhiều thời gian để diệt nhau, căm thù nhau, v.v... thì con người còn chưa có quyền chỉ sống theo sự chủ quan của riêng mình!
Khi con người còn phải bị lệ thuộc vô số những điều bí ẩn của tạo hóa, thì con người chưa phải là tâm điểm điều khiển của vạn vật; hay con người đang chỉ là một sản phẩm như vô số các sản phẩm khác của tạo hóa, nhưng chỉ khác là có thêm phần “Ý THỨC” mà thôi. Nhưng, không vì thế mà con người không chịu cố gắng làm tròn chức năng “có ý thức” của mình.
Sự phát triển của nền văn minh khoa học của loài người đến nay, tuy đã thành công về nhiều mặt, nhưng vẫn chưa chỉ ra được một lý giải nào để có thể gắn kết toàn diện, giữa sự sống chủ quan của con người với sự tác động khách quan của tạo hóa. Hay con người chỉ mới chú trọng đến các qui luật của thế giới vật chất, cùng với sự tranh giành về chúng từ sức mạnh tọa độ S của mỗi người (với x: cách sống, thói quen quan hệ; y: công việc, thú vui theo đuổi hằng ngày; z: những định hướng lý tưởng hay những ước mơ hoài bão chi phối cả đời người), mà quên rằng tất cả đều bị chi phối bởi trung tâm quyền lực O của tạo hóa một cách vô hình.
Mọi S đều được sinh ra, để rồi cuối cùng lại phải quay về với O. Quên O, khác gì con người đã quên mất cái nền đất cơ bản của mình, để rồi say mê, tranh giành, xử tử nhau, v.v... chỉ vì muốn xây lâu đài hạnh phúc trên nền của... “gió thổi mất khi nào không hay!”.
Biết nhìn về tâm O (H.2) là biết thoát ra sự nhỏ hẹp của không gian S; là biết chọn đất, chọn nền xây nhà; thì con người mới thật sự tìm thấy ngôi nhà hạnh phúc được xây chắc trên nền đất vĩnh cữu của tạo hóa. Nó sẽ không bao giờ mất mà càng được phát triển vững bền trong lòng mỗi người đến suốt đời.
Hướng về O tại (H.3), nó có nghĩa: con người phải đi tìm về với sự bình yên tuyệt đối trong tâm hồn của mình, hay có nghĩa con người phải tìm về sự định tâm riêng tư của mỗi người.
Sự định tâm dưới góc độ khoa học, dưới góc độ của ngôn ngữ A, là con người phải có thói quen nhìn sự sống một cách khách quan và toàn diện, để không vì quá chạy theo nguyên tắc và lý trí mà hư việc tâm.
Cách nhìn khách quan là khi mỗi người muốn sống tốt, thì cũng phải cần có ý thức chừa “chỗ” cho người khác sống tốt với. Khi nào xã hội còn một người bị bế tắc trong sự sống, vì sự lấn “chỗ” của một người khác trong xã hội, thì khi đó con người nói chung còn chưa đạt đến tầm nhìn khách quan về “con người và sự sống” vậy.
Để thực hiện thành công yêu cầu trên, con người cần có thói quen nhìn sự sống công bằng và toàn diện hơn. Nhìn toàn diện để con người dễ nhớ, sống để tìm hạnh phúc chứ không phải chỉ để kiếm tiền, chỉ để tranh giành danh lợi, chỉ để trả thù hơn thua, chỉ để bao che một giá trị lý lẽ, v.v.... Vì tất cả chúng chỉ là vô nghĩa, nếu chúng không chứng minh được hạnh phúc đời người là gì, và bằng cách nào để đến một lúc, mọi con người đều có thể hợp tác với nhau thẳng tiến về mục đích thống nhất trên, trong hòa bình, phi bạo lực và tích cực giúp đỡ thân thiện với nhau.
Không có hạnh phúc nào tốt bằng sự hạnh phúc cho mọi người hôm nay, và càng được hoàn thiện cho tất cả mọi người trong tương lai vô hạn về sau.
Không thống nhất được mục đích cơ bản trên, thì phải chăng con người sẽ bị lạc vào một giấc mơ ảo tưởng trong cuộc sống: đó là sự ảo tưởng về giấc mơ “MUỐN ĐƯỢC SỐNG THẬT GIÀU VỀ VẬT CHẤT”, như một hạnh phúc lý tưởng của mỗi đời người. Để rồi đến một lúc, con người lại quay sang sử dụng những lý lẽ có trong ý nghĩa của sự chọn lựa mục đích ấy, để làm lời biện minh hùng hồn cho chính những thất bại mang tính hệ quả từ cách chọn lựa mục đích sống sai lầm ban đầu kia! (?)
Hai lần sai trên sẽ gây cho con người thêm nhiều khó khăn và phức tạp hơn, để nhận thức ra đâu là lối thoát thật sự của sự sống con người và xã hội. Có khi sự sai lầm do thiếu những lời cố vấn kịp thời, sẽ có thể biến nó phát triển dần thành tội phạm. Có những tội phạm có thể định ra thành lời, nhưng cũng có những tội phạm khó có thể diễn tả hết ra thành lời. Nhưng nếu không có cách nào để lý giải ra được tất cả, thì con người dù rất cố gắng cũng sẽ phải tiếp tục bị chìm vào vô số các hệ quả tiêu cực trên; mà thời gian, con người và sự sống sẽ càng không ngừng bổ sung thêm cho chúng những phức tạp mới!
Đứng trước những khó khăn chồng chất trên, con người như đang tìm cách sao cho mau được việc mình, còn nạn nhân thì như trở thành vô nghĩa. Hay đó là vì, con người như luôn bị thúc bách bởi sự sống, hoàn cảnh, nên chưa đủ điều kiện để lý giải nguyên nhân của mọi vấn đề. Nhưng dù sao nhờ vào bản chất, thời gian, sự kiên nhẫn và sự cố gắng, ắt sẽ có ngày con người sẽ tìm ra mọi lời giải. Còn muốn vội nhanh một cách phi khoa học, thì hậu quả chỉ càng gây thêm chậm cho con người bấy nhiêu.
Hay là, muốn đi tìm ngọn nguồn của tất cả mọi nguyên nhân vấn đề quan hệ con người với nhau, thì con người phải quay về điểm O, phải quay về với cái tâm bình yên và trong sạch của mỗi người, để mong tìm sự thấu cảm ra mọi lời giải cần thiết cho vấn đề “sự sống và con người”. Và như đã được giới thiệu về một phương thức lý giải có thể dẫn đến các thành quả trên, đó là phương thức của “Ngôn Ngữ A” vậy.
10. PHƯƠNG THỨC CỦA NGÔN NGỮ A
Lời giải của ngôn ngữ A được bắt đầu từ sự đòi hỏi, con người phải công nhận sự hiện hữu và những phương thức vận động của A. Biết rằng bản chất vận động của A, là ghi lại tất cả mọi hiện tượng nhận thức và hành động của con người, một cách vô thức.
Con người sống tốt, A cho kết quả tốt, con người sống xấu, A cho kết quả xấu. Muốn A tốt, con người phải học cách sống khách quan, thông qua khả năng nhìn sự sống một cách toàn diện, khách quan, khoa học và độc lập như (H.2) đã giới thiệu.
Sống khách quan tức là, sao cho mọi người đều có được một mức sống “hạnh phúc căn bản”, và tăng dần số người có mức sống cao hơn. Để thực hiện được điều trên không phải dễ; vì từ bao nhiêu ngàn năm lịch sử đến nay, con người đã quen cách sống: bên này nụ cười rộng mở, lời lẽ khôn ngoan, hào quan vinh dự sáng giá, v.v... bên kia là sự kém cỏi, ngu dốt, lời lẽ thô tục, bẩn thỉu, nhân cách bị đời khinh bỉ, chê cười, nguyền rủa, v.v...
Đó cũng là cách phân chia phổ biến của các xã hội thời đại. Bên này là những người đầy lòng tự hào và đáng kính, bên kia là những người hạng dưới đáng xấu hổ. Thời nào, nơi nào cũng có lý lẽ phải và trái rành mạch, chân lý và tội ác phân minh; nên cũng là con người, nhưng có hai cách đối xử rất khác nhau như trời và đất vậy!
Làm cách nào để mọi con người đều có thể cùng sống bình đẳng ngang với nhau một tính thiện, hay tất cả đều cùng xứng đáng được tôn trọng trong xã hội, không ai phải bị xã hội ghét bỏ, khinh chê, trị tội, v.v...?
Để thực hiện thành công mục đích trên, ngôn ngữ A cho rằng mỗi con người nên có dịp tự kiểm tra lại mục đích đang sống của đời mình là gì?
Để tìm hiểu mục đích sống mỗi đời người, chúng ta cần lưu ý hai môi trường sống cơ bản: môi trường Không Bình Thường và môi trường Bình Thường. Môi trường sống Không Bình Thường là khi quyền sống cơ bản của con người đang bị đe dọa trực tiếp, như chiến tranh, nô lệ, tù đày, tính mạng bị đe dọa, v.v...; trong điều kiện đó, mục đích trước mắt của đời người chỉ có thể duy nhất, là thoát ra khỏi hoàn cảnh sống Không Bình Thường đó. Môi trường sống Bình Thường là khi con người được sống trong điều kiện phát triển bình thường (hòa bình), như được tự do sống theo ý mình thích. Đây chính là môi trường cần nghiên cứu cẩn thận về “mục đích đời người là gì?” vì nếu không khéo, sự chọn lựa mục đích đó sẽ có thể biến sự sống đời người từ ước mơ “hạnh phúc” thành hậu quả “đau khổ”! Nhiều đau khổ tăng lên, sẽ biến môi trường sống Bình Thường đang có thành trở lại môi trường sống Không Bình Thường như trước đây. Vậy là thất bại!
Vì thế, sự chọn lựa mục đích sống trong môi trường Bình Thường, là một thử thách không đơn giản đối với mỗi người, cũng như đối với cả xã hội. Như chúng ta đã được giới thiệu, cách chọn sai mang tính tiêu cực, là cách chọn lấy phương tiện giá trị vật chất làm mục đích hạnh phúc đời người. Đây là cách chọn rất phổ biến trong thời đại ngày nay. Cách chọn đúng, phải là sự phối hợp nhịp nhàng giữa giá trị Vật Chất và giá trị Tinh Thần, giữa ý nghĩa phương tiện và ý nghĩa mục đích đối với sự sống của mỗi đời người.
Sự chọn phương tiện làm mục đích sống của đời người theo cách trên, thường là do tự phát, do hoàn cảnh, do môi trường gia đình, xã hội, do nhu cầu sinh tồn tác động, v.v... hay do tiếp xúc thường xuyên thành thói quen và ngộ nhận phương tiện là mục tiêu hạnh phúc của đời người lúc nào không hay.
Ngôn ngữ A định nghĩa, “Mục Đích Đời Người” gồm hai giai đoạn: giai đoạn Hình Thức và giai đoạn Nội Dung, hay giai đoạn Vật Chất và giai đoạn Tinh Thần. Giai đoạn Hình Thức, là giai đoạn con người lấy các giá trị quan hệ con người với vật chất làm mục đích hạnh phúc. Giai đoạn Nội Dung, là giai đoạn con người lấy các giá trị quan hệ con người với nhau làm mục đích hạnh phúc chính. Giai đoạn sau là giai đoạn con người hiện đại đang thiếu và đang cần được bổ sung để hoàn thiện mức sống.
Hạnh phúc trong quan hệ con người với nhau còn là hạnh phúc của sự quan hệ giữa mỗi người với chính mình, hay với nội tâm và tâm hồn của mình. Quan hệ với nội tâm là căn bản nhất, nhưng nó phải tùy thuộc vào các quan hệ bên ngoài với mọi người để hoàn thiện.
Để phát triển hạnh phúc lên giai đoạn Nội Dung, chúng ta cần định nghĩa lại một cách chi tiết hơn về thế nào là khái niệm “Hạnh Phúc”.
Khi con người mong muốn có hay muốn đạt được một điều gì, cuối cùng con người được toại nguyện các mong muốn đó; thì mỗi lần được đó, sẽ tương ứng với một niềm vui, một sự sung sướng nhất định hay một hạnh phúc nhỏ trong một thời gian nhất định. Vậy một hạnh phúc lớn, một hạnh phúc toàn diện hay Hạnh Phúc (viết hoa), là con người được toại nguyện tất cả mọi mong muốn trong đời.
Hạnh Phúc bao gồm hai khái niệm: hạnh phúc Vật Chất và hạnh phúc Tinh Thần. Hạnh Phúc Vật Chất là sự toại nguyện về mặt quan hệ giữa con người với vật chất. (Ghi chú: vật chất viết thường, được hiểu theo nghĩa thông thường; Vật Chất viết hoa, hiểu theo nghĩa của ngôn ngữ A. Tinh Thần và tinh thần cũng được hiểu theo ghi chú trên.). Trong đó, Hạnh Phúc Tinh Thần bao gồm hai nội dung: sự toại nguyện về quan hệ giữa con người với nhau, và sự toại nguyện về sự phát triển khả năng nhận thức về cuộc sống hay sự toại nguyện về nội tâm của mỗi người.
Như vậy, mục đích của giai đoạn Nội Dung là nhằm đạt đến sự hạnh phúc Tinh Thần. Hạnh Phúc Tinh Thần được hiểu nôm na, là con người xây dựng sự sống hạnh phúc toàn diện trong một định hướng phát triển hợp lý. Điều đó đòi hỏi con người phải hướng đến cái lợi toàn diện một cách hợp lý: như không thể vì cái lợi của cục bộ mà quên đi cái lợi toàn diện, và cũng không thể vì cái lợi lý lẽ mà quên đi nó không hiệu quả trong thực tế, v.v..., dù là chúng xảy ra do có ý thức hay không.
Trong đó, cái hiểu cơ bản nhất là hiểu sao cho mọi quan hệ con người với nhau đều cần được phát triển cùng chiều, không mâu thuẫn nhau. Tức là, khi bản chất mục đích sự sống con người là Hạnh Phúc, thì các quan hệ của con người không thể vì đó mà phải thành chia rẽ với nhau. Vậy quan hệ tốt, tức là con người phải giúp nhau phát triển tích cực về hướng tất yếu sao cho mọi người có thể phân biệt không lầm lẫn, giữa một bên là hạnh phúc Vật Chất của giai đoạn Hình Thức, nó mang tính phương tiện, và bên phát triển cao hơn là hạnh phúc Tinh Thần của giai đoạn Nội Dung, nó mang tính phát triển toàn diện khả năng sống Hạnh Phúc của cả đời người.
Tuy nhiên, bằng cách nào để con người có thể phân biệt một cách nhanh nhất, đâu là sự lầm lẫn mỗi ngày về sự chọn lựa giữa cách sống có mục đích hạnh phúc của giai đoạn Hình Thức, và cách sống của giai đoạn Nội dung?
Bản chất của hạnh phúc là cảm xúc, đặc tính của cảm xúc là sự đồng cảm và gây ảnh hưởng lan truyền một cách thống nhất về không thời gian. Do đó, để lý giải và hiểu ra giá trị của một sự quan hệ giữa con người với nhau, có khi phải vận dụng một tổng lượng nhận thức toàn cầu, thì mới mong hi vọng tìm ra một lời giải khả dĩ thuyết phục cao mà không cần đến bạo lực.
Yêu cầu trên xem ra không thực tế. Mà cách đơn giản nhất là con người nên nghiên cứu trực tiếp về “bản chất sinh tồn của con người là gì”, bằng con đường Phức 12 chẳng hạn. Sau đó, từ kết quả nghiên cứu đó, con người phát họa ra một môi trường sống mới được giới thiệu như một chuẩn mực, để qua đó mọi người có thể tham khảo, so sánh và tự giác điều chỉnh cách sống của mình cho phù hợp.
Nếu kết quả nghiên cứu về bản chất sinh tồn của con người là đúng, thì khả năng phát họa một môi trường sống mới sẽ có tính khả thi cao.
Nếu được như thế, người tham khảo môi trường sống chuẩn sẽ ít nhiều tìm thấy sự sống của cá nhân mình trong đó; để qua đó, có thể rút ra được một kết luận quan hệ hữu ích, cho đời sống riêng tư cũng như cho cộng đồng.
Chúng ta đã biết môi trường sống tiêu chuẩn được giới thiệu để mọi người tham khảo mang tên, “mthp V” của ngôn ngữ A, hay ngắn gọn hơn “mtnn A hay Môi Trường A”.
Trong môi trường ngôn ngữ A, con người sẽ dễ tìm thấy bản chất thật của mình hơn các môi trường khác. Nếu như con người chưa tìm thấy bản chất thật của mình, thì con người sẽ khó có thể hiểu hết ý nghĩa của các ý muốn và Hành Động của mình đang đem dùng vào cuộc sống, là như thế nào. Do đó, nó có thể dẫn đến hậu quả: con người càng sống, càng làm việc, thì càng mắc sai lầm và dễ bị ngộ nhận về tương lại Hạnh Phúc đời mình.
Để hiểu vì sao môi trường ngôn ngữ A có thể khắc phục được hiện tượng trên, chúng ta có thể phát họa cách thức hình thành môi trường ngôn ngữ A từ phức 12, một cách đại thể như sau:
Bản chất sinh tồn của con người là “có ý thức”, nên các vận động của nó rất đa dạng và vô cùng biến hóa so với các vận động của vạn vật khác. Do đó, để nghiên cứu bản chất con người thành công, con người phải tìm một vị trí cố định trong nhận thức để làm điểm tựa cho yêu cầu quan sát sự vận động nhận thức của con người được thuận lợi, toàn diện và có hệ thống.
Điểm tựa nên chọn nhất là điểm O của Cõi Vô Thức, mà ở trên chúng ta đã có giới thiệu ở (H.2 – chương 9), hay tại tâm O của mô hình Cánh Diều (H.3 – chương 9). Cách chọn đó được mang tên “Sự Định Tâm”.
Sự định tâm đó là quá trình theo dõi các vận động có ý thức và vô thức của con người, đến giai đoạn phát hiện ra các qui luật vận động ổn định của nó; thì cũng là lúc, con người hiểu ra bản chất thật của “SỰ SỐNG” là gì và cũng đồng thời hiểu được “định tâm” là gì.
Từ góc độ hiểu đó, con người mới rút ra kết luận: “phải tạo ra một môi trường sống đơn giản và đồng nhất về quan điểm sống, sao cho nó phù hợp với bản chất sinh tồn của con người”; thì mọi người mới thuận lợi tìm ra bản chất thật của sự sống, của con người hay của bản thân mỗi người.
Khi biết được bản chất sống của nhau, thì con người sẽ biết cách quan hệ tốt đẹp với nhau không khó. Khi mọi người quan hệ nhau tốt đẹp, thì mỗi người đã hoàn thành cho mình một giá trị hạnh phúc Tinh Thần vững chắc. Có hạnh phúc Tinh Thần, cộng với hạnh phúc Vật Chất đã sẵn có, thì khái niệm “Hạnh Phúc đời người” đã xem như được định nghĩa một cách cụ thể trong môi trường của Ngôn Ngữ A vậy.




         HẾT TẬP  I     (từ phần 1 đến phần 4)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét